Như chúng ta biết Du lịch bao gồm tất cả mọi hoạt động của
những người du hành, tạm trú, trong mục đích tham quan, khám phá và tìm hiểu, trải
nghiệm hoặc trong mục đích nghỉ ngơi, giải trí, thư giãn; cũng như mục đích
hành nghề và những mục đích khác nữa, trong thời gian liên tục nhưng không quá
một năm, ở bên ngoài môi trường sống định cư; nhưng loại trừ các du hành mà có
mục đích chính là kiếm tiền. Du lịch cũng là một dạng nghỉ ngơi năng động trong
môi trường sống khác hẳn nơi định cư. Với ý nghĩa nội dung này, chúng ta thử đi
tìm sắc thái hoạt động du lịch ở huyện Sông Hinh tỉnh Phú Yên.
Đất Sông Hinh ngày xưa vốn
là nơi cư trú của các dân tộc thiểu số, có quan hệ với người Chăm và nằm trong
khu vực Thủy Xá và Hỏa Xá. Năm 1806 những tên làng đầu tiên của Sông Hinh được
xuất hiện trong sử sách, thời gian đầu thuộc huyện Đồng Xuân, rồi huyện Sơn
Hòa. Trước năm 1945, phần lớn diện tích của Sông Hinh thuộc huyện Madrak tỉnh
Đắk Lắk. Năm 1970 thuộc huyện Tây Nam. Tháng 6-1976 thuộc huyện Sơn Hoà. Năm
1977 thuộc huyện Tây Sơn (Phú Khánh). Năm 1985 Sông Hinh trở thành một đơn vị
cấp huyện với đầy đủ chức năng hoạt động của nó. Địa giới huyện Sông Hinh ở
phía đông giáp các huyện Tuy Hoà, Vạn Ninh và Ninh Hoà có núi Lá. Phía tây giáp
tỉnh Gia Lai - Kon Tum cách Thành phố Tuy Hòa 54 km; phía nam giáp tỉnh Đắc
Lắc. Phía nam có dãy núi hòn Cồ và Mẹ bồng con, nơi đây có những đỉnh cao như
Chư Ninh (1.035m), Chư Bát, Chư Đam, Chư Một. Phía bắc giáp huyện Sơn Hoà là
vùng đồi núi thấp nằm dọc theo bờ sông Ba. Khí hậu: là vùng đất nằm tiếp giáp
với Tây Nguyên, Sông Hinh chịu ảnh hưởng của khí hậu Tây Nguyên nên mùa mưa
thường xuất hiện sớm, ban ngày nắng gắt, ban đêm nhiệt độ giảm xuống và lạnh
dần về sáng. Dân số: 35.837 người, trong đó người Việt 19.361 người, người Êđê:
11.624, người Chăm: 127, người Bana: 882, người Tày: 1.172, người Nùng: 1.232.
- Về Di tích - danh thắng
có: Miễu Tuy Bình ở thôn Tuy Bình; Mộ Ông ở thôn An Hòa xã Đức Bình Tây ; Phế
tích tháp Chăm ở Thôn Hà Giang xã Sơn
Giang và cũng là nơi phát hiện có nhiều tiền cổ ; Đồn Tuy Bình (cách mạng) và
Lô cốt ngụy quyền thôn Đồng Phú ở xã Đức Bình Tây ; Lòng hồ thủy điện Sông
Hinh; Lòng hồ thủy điện Sông Ba hạ ; Thác nước nóng Suối Mây ; Thác MaRe (cách
cầu Sông Hinh 1km về Đông Bắc).
- Về huyền thoại có: chuyện
tình bên Thác H’Ly kể về một thiên tình sử diễm lệ của đôi trai gái yêu nhau mà
không bao giờ được gần nhau; Có huyền thoại về con lươn ở buôn Đức thuộc xã
Eatrôl, huyện Sông Hinh có một người đàn bà sinh hạ được người con trai đặt tên
là Y Rít. Chàng là người con hiếu thảo, chăm chỉ làm ăn, luôn yêu thương giúp
đỡ người khác; Có huyền thoại về nàng
H’Pia , H’Lúi và con voi rừng ở vùng núi Chư Hong Di Ao và Chư Man Di Un thuộc
địa phận EaLâm và EaLy huyện Sông Hinh bị Yàng bắt về hoá kiếp làm voi đày
xuống trần gian để trông coi vùng rừng núi từ EaLy (Sông Hinh) chạy dài lên tận
Phước Tân (Sơn Hoà). Có sự tích Hang
Cồ tại buôn Đức xã Ea Trôl giải thích những dấu vết lằn ngang vết
dọc như có người cầm dao băm vằm những nhát lớn trên một bãi đá tảng là trận
huyết chiến giữa Y Hanh và tên Cồ hung ác, xảo trá.
- Về di sản văn hóa vật thể
chúng ta có : 14 bộ công chiêng loại 5 chiếc; 350 bộ công chiêng loại 6 chiếc;
183 bộ công chiêng loại 8 chiếc; 8 bộ công chiêng loại 9 chiếc; 7 chiếc Trống; 51 Chiêng
lớn (Sal ); 1 Cồng lớn (Plao
); 11 bộ Aráp; 1 cái Đàn Tính của người Tày; 1 cái đàn Đinh Klút (
Đinh Gúi ) của người Êđê; 1 cái Tù và
của người Dao; 03 Ché Tang 03 cái ( Tang kra, Tang kó) ; 1 cái Ché Pa mnâng ; 1
cái Ché Pa kvang; 1 cái Ché Dú
Về nghệ nhân hát sử thi (trường ca) có:
- Nghệ nhân Ksor Y Thia (Ma
Thơm, mù bẩm sinh), sinh năm 1944. Thể hiện được các bài sử thi: Ktam; Xinh Nhã
(Xin Ngă); Si Tnit; Xinh Nhã Mó; Ktam Yang; Ktam Di; Ksing Ron; Kti Krí; Hla
Yang hiện ở tại Buôn Dành A thuộc xã Ea Bia;
- Nghệ nhân Ksor Y Tốp (Oi
Bôn), sinh năm 1923 (hiện nay mù mắt). Thể hiện được các sử thi: Xinh Nhã; Ma Hứ; Đam Di chặt đọt mây;
Mrong Tung, hiện ở tại Buôn Ma Sung thuộc xã Ea Bia;
- Nghệ nhân Nei Y Blếch (Ma
Đoan), sinh năm 1939. Thể hiện sử thi: Ayong
Khan Yú (Anh Khan Yú), hiện ở tại Buôn
Dành B thuộc xã Ea Bia;
- Nghệ nhân Oi Đức, sinh năm
1935. Thể hiện được các bài sử thi:
Xinh Nhã; Đam Di; Chi On; Đam Dan tuốt lúa; Truyện cổ tích: Chàng lười; Chàng Cốc; Hờ Lúi chẻ củi; Chim vàng;
Con Thỏ với Y Rít; Con Cọp với con Dê; Y Nan; Rum Dú; Con Lươn; Prong Pă; thổi
sáo hút Buôn Đức, hiện ở tại thuộc xã Ea
Trol;
- Nghệ nhân Aley Đúp (Oi Dung),
sinh năm 1936. Thể hiện được các sử
thi: Đam Di chặt đọt mây; Xinh
Nhã; Đam Di đi săn; Y Thoa; hiện ở tại Buôn Bầu thuộc xã Ea Trol;
- Nghệ nhân Niê Y Dú (Oi
Lắt), sinh năm 1931. Thể hiện được các
sử thi: Xinh Nhã; - Anh Y Brao hiện ở tại Buôn Ly thuộc xã Ea Trol ;
- Nghệ nhân Kpă Y Vít (Ma
Nhon), sinh năm 1960.Thể hiện được các
sử thi: Xinh Nhã; - Đam Di; Nghệ nhân Oi Quân, sinh năm 1926 thổi được
Đinh Lkút (Đinh Gúi) hiện ở tại Buôn
Chung thuộc xã EaBar;
- Nghệ nhân Ksor HLắc (Duôn
Ra) thể hiện được các sử thi: Xinh Nhã; Đam Di; KĐăm Di; hiện ở
tại Buôn Thứ thuộc xã EaBar;
- Nghệ nhân Ma Meo hát sử thi, 65 tuổi hiện ở
tại Buôn Ken thuộc xã Ea Bar;
- Nghệ nhân thổi ống đất Y
Rố, 30 tuổi hiện ở tại Buôn Chao thuộc
xã EaBar;
- Nghệ nhân Đàm Thị Cầu (người Tày), 51 tuổi
hát và đánh đàn tính hiện ở tại Khu phố 8 thuộc Thị trấn Hai Riêng;
- Nghệ nhân đánh
nhạc cụ bằng tre, nứa Oi
Diêu, sinh năm 1920 hiện ở tại xã EaBar;
-
Nghệ nhân đẽo tượng Ma Dêu 63
tuổi hiện ở tại Buôn Thô thuộc Thị trấn Hai Riêng;
-
Nghệ nhân đẽo tượng Ma Núc,
61 tuổi (Buôn Chung); Oi Chiêu, Oi Nhói (Buôn Trinh) hiện ở tại Buôn Thứ thuộc xã Ea Bar ;
Về
lịch sử thời kháng chiến chống Pháp, chống Mỹ: cũng có nhiều sự kiện như đầu năm 1954, ta phá khu dồn và cứ điểm
EaRiêng, đánh địch tại Đức Bình, Trường Lạc, dốc Phường, giữ chân không cho
Pháp đem quân chi viện chiến dịch Atlante đang sa lầy tại Phú Yên. Ngày
10-3-1975, hai chiếc xe tải chở hàng tiếp viện cho chiến trường Phú Yên được
nhân dân các buôn Ma Giá (Suối Trai) buôn Bai, buôn Bưng, buôn Keng, đưa từ bờ
bắc sang bờ nam an toàn. Ngày 16-3-1975, lực lượng du kích các xã EaBá, Đức
Bình chặn đánh, làm tan rã cuộc co cụm về đồng bằng theo đường tỉnh lộ số 7.
Với Non sông – Đất nước và
Con người ở Sông Hinh như trên, chúng ta thử
chọn chủ đề hoạt động du lịch ở Sông Hinh là “Không gian văn hóa cồng chiêng”.
Từ chủ đề này, mục tiêu hướng đến là làm cho khách du lịch hiểu và thẩm thấu âm
giai văn hóa cồng chiêng của một vùng đất có mật độ núi khá dày, tạo cho Sông
Hinh có nhiều sông và suối như sông Ba, sông Hinh, sông Con, Thác H’Ly… Để đạt
đến đích của mục tiêu này, chúng ta cần phải làm những công việc cụ thể như
sau:
- Một là: Cần phải xây dựng
Nhà bảo tàng di sản văn hóa vật thể: Cồng, Chiêng, Trống đôi, đàn Aráp, Đàn Tính, Đàn Đinh Klút (Đinh
Gúi), Tù và, Ché Tang, Ché Pa mnâng, Ché Pa kvang, Ché Dú. Thông qua các hiện
vật này chúng ta có thể đáp ứng được cho khách du lịch muốn tìm hiểu về nét
sống văn hóa của một vùng đất sử thi có liên quan đến Thủy xá và Hỏa Xá.
- Hai là: Xây dựng và củng
cố đội ngũ hát sử thi, hát khan; đẽo tượng và sử dụng nhạc cụ dân tộc để phục
vụ khách du lịch thưởng lãm và đó cũng là sự gián tiếp giới thiệu sắc thái văn
hóa cồng chiêng của một vùng đất.
- Ba là: Xây dựng các chương trình diễn tấu hoặc trích đoạn trong các lễ
hội đặc trưng như lễ cầu mưa, lễ ăn hỏi, mừng nhà mới, mừng lúa mới…cho 6 đội
văn nghệ quần chúng ở các xã: Sông Hinh,
Ea Lâm, Ea Trol, Ea Bá, Ea Bia và thị trấn Hai Riêng để phục vụ các tour du
lịch đến Sông Hinh.
- Bốn là: Cần có chương
trình sưu tầm di sản văn hóa vật thể để bổ sung Nhà bảo tàng di sản văn hóa vật
thể và văn hóa phi vật thể bổ sung cho Thư viện Sông Hinh để làm phong phú thêm
sản phẩm “Không gian văn hóa cồng chiêng” và đó cũng là điều kiện để thúc đẩy cho
việc xây dựng, củng cố và phát triển đội ngũ
nghệ nhân và các đội văn nghệ quần chúng hiện nay.
Kính thưa quý vị, nếu chúng
ta hoàn thành được 4 công việc cụ thể nêu trên một cách thường xuyên, chính là
chúng ta đang thực hiện thành công trong việc quy hoạch sản phẩm du lịch ở Sông
Hinh. Và đó cũng là giới thiệu được sắc thái hoạt động du lịch của huyện Sông
Hinh.
Mặt khác hoạt động du lịch
“Không gian văn hóa cồng chiêng ở huyện Sông Hinh, tỉnh Phú Yên cũng là thực
hiện được công tác bảo tồn, phát huy giá trị di sản văn hóa, góp phần giáo dục
ý thức bảo vệ di sản văn hóa cồng chiêng, suy tôn các nghệ nhân cồng chiêng, di
sản văn hóa của nhân loại được thế giới thừa nhận và Việt Nam vinh dự được thừa
hưởng và làm cho nó ngày càng có sức lan tỏa và phát huy giá trị thật sự của
văn hóa cồng chiêng.
Dương Thái Nhơn
Giám đốc Thư viện tỉnh Phú Yên
0 nhận xét:
Đăng nhận xét