Quyết định
của cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở
Quan trọng nhất của quá trình quản
lý là việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định. Quyết định quản lí
được coi là sản phẩm của người cán bộ lãnh đạo, quản lí nói chung, của cán bộ lãnh
đạo, quản lý cơ sở nói riêng. Đây là sản phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng,
một quyết định đúng và đắn và kịp thời sẽ quyết định đến chất lượng công việc
của cả một tập thể. Tuy nhiên công việc của tập thể đó sẽ không mang lại hiệu
quả nếu quyết định được tổ chức thực hiện cẩu thả, không đúng qui trình, không
theo nguyên tắc. Do đó, việc tổ chức thực hiện quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản
lí phải có qui trình, nguyên tắc khoa học
Khái
niệm: Quyết định LĐ,QL là sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong
hoạt động LĐ,QL xã hội, tiến hành theo một trình tự, thủ tục, được thể hiện
dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ thị…; nhằm tổ
chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo
định hướng nhất định.
Căn
cứ vào chủ thể ra quyết định LĐ,QL cấp cơ sở có các loại quyết định LĐ,QL sau:
- Quyết định LĐ,QL của tổ
chức Đảng.
- Quyết định LĐ,QL của chính
quyền cơ sở.
Căn cứ vào thẩm quyền ra quyết định: Các cơ quan LĐ
Đảng cấp cơ sở ban hành
Nghị
quyết của Đại hội đảng bộ (Đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể đảng viên);
Nghị quyết của Ban chấp hành đảng bộ cơ sở.
+
Nghị quyết là văn bản ghi lại các quyết định được thông qua ở đại hội, hội nghị
cơ quan lãnh đạo đảng các cấp, hội nghị đảng viên về đường lối, chủ trương,
chính sách, kế hoạch hoặc các vấn đề cụ thể.
+
Quyết định là văn bản dùng để ban hành hoặc bãi bỏ các quy chế, quy định, quyết
định cụ thể về chủ trương, chính sách, tổ chức bộ máy, nhân sự thuộc phạm vi
quyền hạn của cấp uỷ, tổ chức cơ quan đảng.
Chính
quyền cấp cơ sở ban hành
+
Quyết định quy phạm
Nghị
quyết của Hội đồng nhân dân: nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị
trấn (gọi chung là cấp xã) được ban hành để quyết định chủ trương, biện pháp
trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, thi hành pháp luật, xây dựng chính
quyền địa phương trên địa bàn xã, phường, thị trấn quy định tại Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và các văn bản bản quy phạm pháp luật khác
có liên quan của cơ quan nhà nước cấp trên.
Quyết
định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân: quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp xã được
ban hành để thực hiện chủ trương, biện pháp trong các lĩnh vực đời sống xã hội,
thi hành pháp luật trên địa bàn xã, phường, thị trấn quy định tại Luật Tổ chức
Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác có
liên quan của cơ quan nhà nước cấp trên.
Chỉ
thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành để quy định biện pháp chỉ
đạo, kiểm tra hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý
trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của Hội đồng nhân
dân cùng cấp và quyết định của mình.
+
Quyết định cá biệt
Quyết
định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành trên cơ sở các quyết
định quy phạm với mục đích là giải quyết các công việc cụ thể và được áp dụng
một lần cụ thể đã xác định. Quyết định cá biệt chính là cơ sở phát sinh, thay
đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.
Quy trình tổ chức thực
hiện quyết định LĐ, QL cấp cơ sở.
a.
Triển khai quyết định
Việc triển khai quyết định LĐ,QL cấp cơ sở đến đối tượng quản lý phải theo đúng
quy định của pháp luật, Điều lệ của Đảng.
Nhận được quyết định, các tổ chức, cơ quan, cá nhân có liên quan phảI thực hiện
triệt để bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng, đề ra kế hoạch, biện pháp thực hiện cho
phù hợp với điều hiện cụ thể của đơn vị, địa phương mình, đảm bảo việc triển
khai thực hiện không được trái với quyết định LĐ,QL đã được ban hành.
b.
Tổ chức lực lượng thực hiện quyết định
Cần
bố trí, tổ chức lực lượng cán bộ phù hợp để thực hiện quyết định, đồng thời bảo
đảm những phương tiện cần thiết về vật chất, về tài chính cho việc thực hiện
quyết định.
Tuỳ
thuộc vào từng loại quyết định LĐ,QL cấp cơ sở. Các biện pháp có thể lựa chọn
là:
-
Quyết định được thực hiện đối với toàn bộ phạm vi đối tượng, lĩnh vực cần thiết
điều chỉnh, tác động.
-
Quyết định được thực hiện thí điểm, sau đó mới sơ kết, tổng kết để rút kinh
nghiệm và ra quyết định chính thức để triển khai rộng rãi.
-
Quyết định được triển khai thực hiện rộng, nhưng cần có sự chỉ đạo để nhanh
chóng rút kinh nghiệm để chỉ đạo thực hiện tiếp tục.
c.
Kiểm tra việc thực hiện quyết định
Một khâu không thể thiếu được trong hoạt động LĐ,QL nói chung và LĐ,QL cấp cơ
sở nói riêng là theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định LĐ,QL. Do đó, việc
ra quyết định LĐ,QL phải gắn liền với việc kiểm tra thực hiện quyết định.
Việc kiểm tra thực hiện quyết định có nhiệm vụ nắm tình hình và kết quả một
cách có hệ thống, có kế hoạch. Việc kiểm tra phải chú ý tới cả hai mặt của việc
thực hiện quyết định. Đó là: tìm ra nguyên nhân của việc không thực hiện hoặc
thực hiện không tốt quyết định. Và cũng chú ý tới kết quả tốt, tìm ra những ưu
điểm, đúc kết bài học kinh nghiệm thành công trong việc thực hiện quyết định.
Việc kiểm tra thực hiện quyết định LĐ,QL cấp cơ sở phải được xây dựng thành kế
hoạch ngay từ giai đoạn nghiên cứu dự thảo quyết định; trong đó xác định rõ cơ
quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra và đối tượng chịu sự kiểm tra.
Tiếp đó, việc kiểm tra phải được tiến hành ngay sau khi ban hành quyết định và
trong suốt thời gian thực hiện quyết định.
* Các hình thức kiểm tra có thể áp dụng:
- Kiểm tra thường xuyên và toàn diện trong suốt quá trình diễn biến thực hiện quyết
định
- Kiểm tra đột xuất có trọng điểm, nhằm vào một số khâu nhất định
- Kiểm tra tổng kết việc thựuc hiện quyết định
- Qua công tác kiểm tra, căn cứ vào kết quả kiểm tra, cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền phải xử lý kết quả kiểm tra.
- Đôn đốc việc thực hiện, bổ sung quyết định cần thiết
- Khen thưởng người tốt, việc tốt
- Xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân sai phạm
- Sơ kết
d.
Tổng kết, đánh giá việc thực hiện quyết định
Tổng kết, đánh giá phải dựa trên việc xử lý các số liệu thể hiện kết quả thực
hiện, xử lý các thông tin phản hồi, xử lý kết quả kiểm tra việc thực hiện quyết
định…Điều quan trọng là phải đánh giá việc thực hiện quyết định LĐ,QL một cách
chính xác, khách quan, trung thực, cụ thể kết quả thực hiện quyết định, tuyệt
đối tránh bệnh phô trương, thổi phồng thành tích. Nếu làm tốt công tác này góp
phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác LĐ,QL cấp cơ sở.
2.
Kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định LĐ,QL
a.
Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL.
Lập kế hoạch là một khâu
trong chu trình LĐ,QL. Trong quy trình tổ chức thực hiện quyế định LĐ,QL cấp cơ
sở, lập kế hoạch là bước đầu tiên trong quy trình tổ chức thực hiện quyết định
và có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện quyết định trên
thực tế. Tuy nhiên, lập kế hoạch tổ chức thực hiện quyết định LĐ,QL phải được
đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khâu của chu trình thựuc hiện
quyết định.
* Nếu người LĐ có kỹ năng lập kế hoạch thì nó được thể hiện ở các yếu tố sau:
+ Việc tư duy có hệ thống tiên liệu được các tình huống trogn hoạt động LĐ,QL.
+ Biết phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức một cách hữu hiệu hơn.
+ Biết tập trung vào các mục tiêu và chính sách của tổ chức.
+ Nắm vững các nhiệm vụ cơ bản của tổ chức để phối hợp với các nhà LĐ,QL khác.
+ Sẵn sàng ứng phó và giải quyết nhanh chóng với các tình huống đặt ra trong
quá trình thực hiện quyết định LĐ,QL.
+ Phát triển hữu hiệu các tiêu chuẩn kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đã đề ra.
* Trình tự lập kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL như sau:
+
Bước 1: Xác định mục tiêu yêu cầu của việc thực hiện quyết định.
+
Bước 2: Xác định nội dung việc thực hiện quyết định.
+
Bước 3: Xác định địa bàn, đối tượng, thời gian thực hiện quyết định.
+
Bước 4: Xác định phương pháp thựuc hiện quyết định
+
Bước 5: Xác định phương pháp theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết
định
b,
Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết định LĐ,QL.
Khi kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL đã được đặt ra thì bất cứ bất cứ đối
tượng chịu sự LĐ,QL đều phải thực hiện nghiêm chỉnh.
Kỹ năng này giúp cho người LĐ kiểm soát được quá trình thực hiện quyết định
LĐ,QL đang được diễn ra thế nào, từ đó
-
Kỹ năng xử lý tình huống trong LĐ,QL.
Để giải quyết tốt các tình huống trong hoạt động LĐ,QL, người LĐ chú ý những
vấn đề sau:
+ Chỉ đạo triển khai giải quyết một cách chủ động theo kế hoạch đã xây dựng
trước.
+ Những phát sinh mới nằm ngoài dự liệu cần có ngay những phương hướng giải
quyết nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm phát sinh trong quá trình
thực hiện quyết định.
+ Thực hiện đúng trình tự, thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ
của Đảng.
-
Kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo
Để thực hiện tốt công tác này người LĐ cần thực hiện đúng các yêu cầu sau:
+ Nắm được các quy định pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng về giải quyết
khiếu nại, tố cáo kể cả về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giảI quyết khiếu nại,
tố cáo.
+ Nắm được các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo đặc thù gắn
với thực tế địa phương.
Những kỹ năng cần trau dồi và thực hiện tốt đó là:
+ Kỹ năng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo.
+ Kỹ năng giao tiếp của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ công vụ nói
chung và tiếp nhận khiếu nại, tố cáo nói riêng.
+ Kỹ năng phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
+ Kỹ năng xác minh, xem xét và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Địa
phương tôi đang công tác là một địa bàn miền núi, đa sắc tộc, tỷ lệ người dân tộc
thiểu số khá đông; đời sống nhân dân có xuất phát điểm thấp, còn gặp nhiều khó
khăn; Các thế lực thù địch lợi dụng tự do tôn giáo lôi kéo kích động người nhẹ
dạ gây mất trật tự địa phương; Trình độ đôi ngũ cán bộ, nhất là cán bộ người
dân tộc thiểu số còn thấp về mọi mặt. Tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng
của việc ra quyết định và nhất là việc tổ chức thực hiện quyết định, từng cấp ủy
đảng đã quán triệt sâu sắc đến toàn thể cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức
trong việc tổ chức thực hiện quyết định của cán bộ lãnh đạo quản lý. Hầu hết
các quyết định ngay sau ban hành được lên kế hoạch triển khai cụ thể, sau đó phổ
biến cụ thể đến từng cán bộ, đảng viên, nhất là các cán bộ đảng viên liên quan
trong quyết định; Nhiều quyết định được niên yết công khai tại trụ sở, được
nhanh chóng chuyển đến các tổ chức, cá nhân liên quan; Các cấp ủy đảng chỉ đạo
chính quyền, mặt trận và các hội đoàn thể cùng phổi hợp, phổ biến, tuyên truyền
nội dung các quyết định đến toàn thể đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân;
Lồng ghép trong việc tuyên truyền phổ biến, thông qua chính quyền, các hội đoàn
thể, các cấp ủy đảng tranh thủ tiếp thu những ý kiến phản hồi của nhân dân để
tiếp tục đưa ra những ý kiến, chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp với tình hình thực
tế.
Trong quá trình trình hiện, các cấp ủy
đảng, cán bộ lãnh đạo quản lý đã chú trọng nhiều đến việc kiểm tra thực hiện
quyết định. Việc kiểm tra việc thực hiện quyết định được tiến hành thường xuyên,
liên tục, từ đó kịp thời nắm bắt diễn biến thuận lợi cũng như khó khăn, nhờ vậy
cấp ủy, người lãnh đạo quản lý đã có những điều chỉnh kịp thời, đảm bảo quyết
định phù hợp với tình hình thực tế, đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, các cấp
ủy đảng, người cán bộ lãnh đạo quản lý địa phương rất coi trọng công tác tổng kết,
đánh giá kết quả thực hiện quyết định, thông qua các buổi tổng kết để tìm ra
những sai lệch, nguyên nhân sai lệch, phát hiện những nguồn lực chưa khai thác, sử dụng hiệu quả để
rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý ngày càng tốt hơn, hoàn thiện
hơn
Một ví dụ cụ thể là
việc tổ chức, triển khai thực hiện quyết định thành lạp Ban tỏ chức học nghị
quyết đại hội các cấp nhiệm kỳ 2010-2015. Căn cứ hướng dẫn của Huyện ủy Sông
Hinh về việc tổ chức học Nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đại Hội
Đảng bộ tỉnh PY lần thứ XV, Đại Hội Đảng Bộ huyện lần thứ VII. Ban Thường
Vụ Đảng Ủy Thị trấn tôi công tác ra quyết định số 13 thành lập Ban Tổ Chức gồm
03 đồng chí thực hiện tổ chức đợt học tập này ( gồm 1 trưởng ban, 1 phó ban và 1
thành viên ).
Sa khi ra
quyết định, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đưa quyết định này lên trên mạng nội bộ của
Công ty để thông báo đến những đồng chí có tên trên trong quyết định biết để
thực hiện các nội dung trong quyết định.
Căn cứ vào
chức danh trong quyết định, đồng chí Hà là trưởng ban tổ chức đã họp các đồng
chí trong Ban Tổ Chức và đề ra kế hoạch thực hiện như sau: Mời báo cáo viên là
các báo cáo viên thuộc Đảng bọ Huyện, thời gian học tập Nghị quyết vào 29, 30
tháng 07 năm 2011, địa điểm: Hội trường thị trấn, các đối tượng tham gia học là
cán bộ chủ chốt các ban ngành, đoàn thể thị trấn, các thôn buôn, cán bộ, công
chức, viên chức công tác tại Đảng uye, UBND thị trấn, đồng chí trưởng Ban Tổ
Chức sau khi soạn thảo kế hoạch đã trình đồng chí Bí Thư phê duyệt.
Sau khi
kế hoạch được phê duyệt, tôi và các đồng chí trong Ban Tổ Chức phối hợp với Ban
Chấp Hành 2 Đoàn thể cử người chuẩn bị âm thanh, ánh sáng, nhạc Quốc Ca, cắt
dán phông chữ và khẩu hiệu, chuẩn bị xắp bàn ghế đúng với số lượng trong kế
hoạch, chuẩn bị nước uống. Tất cả những công việc trên đều được chuẩn bị hoàn
chỉnh trước ngày học 01 ngày.
Ban tổ
chức làm thư mời báo cáo viên và ghi rõ thời gian , địa điểm học gửi lên Đảng
Ủy để báo cáo viên biết ngày và xắp xếp lịch giảng ( thư mời báo cáo viên được
gửi trước 30 ngày ).
Ban tổ
chức học tập Nghị Quyết ra thông báo ngày học là ngày 29 và ngày 30 tháng 07
năm 2011 thời gian; sáng từ 8 giờ đến 11 giờ; chiều từ 1 giờ 30 đến 4 giờ 30 và
viết thông báo lên bảng và gửi về các thôn, buôn khu phố trước ngày học là 07
ngày để các đối tượng tham dự học biết và xắp xếp công việc và thời gian để đii
học.
Trong
quá trình thực hiện quyết định, Đồng chii1 Bí Thư Đảng Bộ thị trấn thường xuyên
mời đồng chí trưởng ban tổ chức đến để báo cáo công tác chuẩn bị đến đâu và gần
ngày đi học Đồng chí trực tiếp xuống Hội trường để kiểm tra các công tác chuẩn
bị đã được đầy đủ chưa nếu có gì bị thiếu kịp thời chấn chỉnh và bổ sung ngay
để cho buổi học Nghị quyết đạt kết quả tốt.
Sau khi tổ chức
học tập Nghị quyết XI xong, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đã họp Ban Tổ Chức và đánh
giá việc thực hiện đạt kết quả tốt và thành công tốt đẹp.
Tóm lại, Một quyết định khi ra đời, cần phải tổ chức
thực hiện và để giải quyết các vấn đề : Thực hiện cái gì? Tại sao thực hiện? Ai
thực hiện? Thực hiện ở đâu? Thời gian thực hiện? Và thực hiện bằng cách nào?
vấn đề cốt lỏi là truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết định, đồng
thời cũng vạch ra những biện pháp để thực hiện quyết định đó. Với ý nghĩa đó,
bên cạnh việc truyền đạt kịp thời quyết định đến người thực hiện thì các cấp ủy
đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần chọn ra người có uy tín và am hiểu về công
việc cần thực hiện để khi truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết
định đưa ra sẽ được tiếp nhận và thực hiện chính xác đạt hiệu quả cao. Song
song với nó, cần phải tổ chức kiểm tra việc thực hiện và kịp thời điều chỉnh
khi cần thiết. Sau khi công tác hoàn thành cần tiến hành tổng kết việc thực
hiện quyết định trên để đánh giá được kết quả thực hiện, tìm ra các sai lệch,
nguyên nhân sai lệch hoặc các các tiềm năng chưa được khai thác, sử dụng một
cách hiệu quả để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lí ngày
càng tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Là người công tác, sinh sống tại địa phương, được tham
gia lớp Trung cấp chính trị tại chức K63, tôi càng nhận thức sâu sắc rằng tổ
chức thực hiện quyết định cán bộ, lãnh đạo quản cấp cơ sở đúng quy trình,
nguyên tắc là mấu chốt đem lại thành công hay kém hiệu quả trong việc thực hiện
nhiệm vụ chính trị tại cơ sở. Vì vậy để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính
trị nói chung, tôi nghĩ rằng trước hết mình phải tích cực hơn nữa tự tìm tòi,
học hỏi nâng cao trình độ lý luận chính trị, Chủ nghãi Mác Lê Nin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh; nêu cao tính tích cực, chủ động của người đảng viên, nắm vững quy
trình và kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định của cán bộ lãnh đạo quản lý, phổ
biến lại cho đồng nghiệp, cán bộ, đảng viên cùng đơn vị đểcùng nhau thực hiện
tốt quyết định của cán bộ lãnh đạo quản lý, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ
chính trị của cơ sở, ddaps ứng yêu cầu phát triển của đất nước.
Câu 04-KHQL: Hãy trình bày nhận thức cơ bản về
quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện quyết định quản lý và liên hệ với thực
tiễn quá trình ra quyết định ở đơn vị đồng chí.
BÀI LÀM
Quan trọng nhất của quá trình quản lý là việc ra quyết
định. Quyết định quản lí được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lí nói
chung, của cán bộ lãnh đạo ngành và cơ sở nói riêng. Đây là sản phẩm có ý nghĩa
đặc biệt quan trọng, bỡi vì nếu có quyết định đúng đắn và kịp thời thì sẽ đem
lại sự giàu có và phát triển, ngược lại nếu quyết định sai và không đúng lúc có
thể gây tai hoạ, thậm chí phá sản. Do đó, việc ra quyết định quản lí phải hết
sức chính xác, đúng đắn, khoa học và cần vận dụng trên cơ sở tuân thủ các bước,
sử dụng các căn cứ và các phương pháp ra quyết định quản lý
Có thể khái quát quyết định quản lý là sản phẩm của
một quá trình, dựa vào đó để tiến hành giải quyết các vấn đề trong tổ chức nhằm
đạt được mục tiêu của tổ chức. Mỗi quyết định quản lý nhằm trả lời một, hoặc
một số câu hỏi sau : tổ chức cần làm gì? Khi nào làm cái đó ? làm trong bao lâu
? ai làm ? và làm như thế nào ?
Như vậy,
Quyết định quản lý là hành vi có tính chất chỉ thị do một cơ quan
hay một người đưa ra nhằm định hướng, tổ chức hoạt động của tập thể lao động thực
hiện mục tiêu quản lí.
Ra quyết định quản lý là sự lựa chọn các mục đích cũng
như các phương tiện và phương pháp để đạt mục đích trong lĩnh vực hoạt động.
Việc xác định mục tiêu sẽ giúp cho người quản lí nỗ lực cao hơn đối với những
mục tiêu ở mức khó khăn, để từ đó có thể đạt được kết quả như mong muốn.
Đặc điểm của quyết định là sản phẩm của tư duy con người, là
kết quả của quá trình thu nhận thông tin, tìm kiếm, phân tích và lựa chọn. Điểm
chung của quyết định là tính tư duy và tính tương lai, là sản phẩm sáng tạo của
tư duy, là sự lựa chọn tương lai của con người. Bỡi lẽ là sản phẩm tư duy của
con người, nên quyết định quản lý luôn bị cácyếu tố chủ quan chi phối : cá
tính, quan điểm, trình độ, năng lực của người lãnh đạo. Cho nên, để đảm bảo cho
các quyết định quản lý có chất lượng thì khi đề ra các quyết định phải dựa trên
các cơ sở khách quan. Đó là : yêu cầu của quy luật khách quan tác động tới đối
tượng quản lý; đặc điểm và xu thế phát triển của đối tượng quản lý và điều kiện
vật chất và thời gian có thể thực hiện quyết định. Với nội dung trên, quyết
định quản lý có năm đặc điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, chỉ có chủ thể quản lý mới có quyền ra quyết
định.
Thứ hai, các quyết định hướng trực tiếp vào tổ chức,
hoạt động của người lao đọng.
Thứ ba, các quyết định chỉ đề ra khi vấn đề và điều
kiện đã chín muồi.
Thu tư, quyết định quản lý liên quan trực tiếp đến quá
trình thu nhận, xử lý thông tin và lựa chọn phương tiện hoạt động.
Thứ năm, quyết định quản lý được hình thành trên cơ sở
hiểu biết các quy luật và sự vận động của hệ thống quản lý.
Do tính chất rất quan trọng của quyết định quản lý và
đồng thời để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của nó thì yêu cầu quyết định quản lý
phải bảo đảm tính hợp pháp, có căn cứ khoa học, bảo đảm tính thống nhất trong
nội dung quyết định, đồng thời phải bảo đảm tính tối ưu, linh hoạt, kịp thời,
chính xác và ngắn gọn.
Vấn đề ra quyết định quản lý quả thật không hề đơn
giản, nó là cả một quá trình bao gồm nhiều bước phức tạp, nhiêu khê có liên
quan đến việc hình thành vấn đề, xác định và lựa chọn phương án thông qua và
văn bản hoá quyết định. Gắn với nó là sự sáng tạo, nhạy bén của tư duy nhà lãnh
đạo quản lý trên cơ sở thực tiển kết hợp với các phương pháp khoa học và các
quy luật khách quan. Thông thường nó bao gồm các giai đoạn cơ bản sau :
Giai đoạn
chuẩn bị : Đây là quá trình phát hiện
vấn đề, đánh giá tình huống, nêu rõ mục tiêu, tìm hiểu thông tin cần thiết cho
quyết định. Trên cơ sở đó xác định tiêu chuẩn, trọng số cho các tiêu chí để
đánh giá hiệu quả của các phương án (tiết kiệm vốn, thu hút lao động, lợi nhuận
thu được, thị trường ..).
Giai đoạn chủ
yếu : Đây là quá trình thu thập thông
tin, dữ liệu, số liệu để làm rõ nhiệm vụ cần giải quyết. Trên cơ sở đó chính
thức đề ra nhiệm vụ và xây dựng các phương án, lựa chọn phương án tối ưu và ra
quyết định.
Hai giai đoạn trên có liên hệ mật thiết, tác động qua
lại là điều cần và đủ của một quá trình ra quyết định. Bỡi lẽ, việc phát hiện
và đánh giá đúng tình huống là cơ sở đảm bảo cho quyết định mang tính thực tiển
và ngược lại, khâu giải quyết vấn đề, ra quyết định đúng đắn là chìa khoá cho
sự thành công, đảm bảo cho sự phát triển. Do vậy, nếu không muốn sai lầm, thất
bại, thậm chí dẫn đến hậu quả tai hại do quyết định đưa ra sai trái thì đòi hỏi
người lãnh đạo phải vận dụng trên cơ sở tuân thủ các bước tiến hành trong quá
trình xây dựng quyết định và đặc biệt cần nhấn mạnh đến nhân tố xã hội ảnh
hưởng ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định như điều kiện lao động, trình độ
nghề nghiệp và thái độ lao động, chính sách của nhà nước, mục tiêu, thị trường
.. cùng với vai trò cá nhân lãnh đạo, tư duy của tập thể các chuyên gia kết hợp
với các phương pháp khoa học trong tính toán số liệu và ra quyết định quản lý .
Một quyết định quản lý giữ vai trò rất quan trọng đối
với sự thành bại của đơn vị và chu kỳ sống của 1 quyết định quản lý thường trải
qua 5 giai đoạn : giai đoạn mới triển khai, chưa phát huy đầy đủ tác dụng,
quyết định bắt đầu phát huy tác dụng, quyết định phát huy tác dụng ở mức cao
nhất, quyết định bắt đầu bị hạn chế bởi tác động của môi trường và thị trrường
biến đổi và cuối cùng là giai đoạn quyết định thể hiện sự trì trệ, kìm hãm đời
hỏi phải có quyết định phù hợp hơn để thay thế. Nắm được chu kì sống của quyết
định sẽ giúp cho người lãnh đạo lựa chọn được thời điểm ra quyết định và biết
khi nào phải thay đổi và đề ra quyết định mới.
Một quyết định khi ra đời, cần phải tổ chức thực hiện
và để giải quyết các vấn đề : Thực hiện cái gì? Tại sao thực hiện? Ai thực
hiện? Thực hiện ở đâu? Thời gian thực hiện? Và thực hiện bằng cách nào? vấn đề
cốt lỏi là truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết định, đồng thời
cũng vạch ra những biện pháp để thực hiện quyết định đó. Với ý nghĩa đó, bên
cạnh việc truyền đạt kịp thời quyết định đến người thực hiện thì các cấp ủy
đảng, cán bộ lãnh đạo quản lý cần chọn ra người có uy tín và am hiểu về công
việc cần thực hiện để khi truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết
định đưa ra sẽ được tiếp nhận và thực hiện chính xác đạt hiệu quả cao. Song
song với nó, cần phải tổ chức kiểm tra việc thực hiện và kịp thời điều chỉnh
khi cần thiết. Sau khi công tác hoàn thành cần tiến hành tổng kết việc thực
hiện quyết định trên để đánh giá được kết quả thực hiện, tìm ra các sai lệch,
nguyên nhân sai lệch hoặc các các tiềm năng chưa được khai thác, sử dụng một
cách hiệu quả để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lí ngày
càng tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Tóm lại, quyết định quản lý trong cơ chế mới hiện nay
đòi hỏi phải xây dựng căn cứ khoa học cho các quyết định quản lý, và từ đó cũng
đòi hỏi những cán bộ của bộ máy quản lý phải có phẩm chất và năng lực tương
ứng. Việc ra quyết định quản lý được xem là nội dung hàng đầu và chủ yếu của
công tác quản lý, là cơ sở quan trọng nhất để đánh giá trình độ, năng lực của
người lãnh đạo, người quản lý.
Luật XD được
QH thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 thay thế NĐ 52/CP ngày 8/701999
của Chính phủ về quản lý ĐTXDCB.
Luật XD ra
đời nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và luật hoá các hành vi của chủ thể
trong công tác QL&ĐTXDCB nhằm đáp ứng các nhu cầu bức thiết hiện nay :
Phân cấp quản
lý.
Vai trò và
trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quá trình ĐT XDCB.
Đây là bộ
luật mang tính thực tiển và khoa học cao. Nhưng xét ở khía cạnh toàn diện, phối
hợp thực hiện còn nhiều vấn đề cần phải hoàn chỉnh.
NĐ 209/CP ngày 7/12/2004 và NĐ 16 ngày
7/02/2005 chưa có thông tư hướng dẫn gây rối trong công tác quản lý.
Câu 05: Trình bày quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện
quyết định quản lý. Phân tích một quyết định tại địa phương ?
BÀI LÀM
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định
quản lý. Quyết định quản lý liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của
toàn bộ quá trình quản lý. Quyết định quản lý được coi là sản phẩm của người
lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng của mình là ở khâu ra quyết
định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết định chính
xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm,
vài trò và yêu cầu của quyết định quản
lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách khoa học.
Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, chúng ta hãy phân tích làm rõ các nội
dung trên.
Quyết định
quản lý là hành vi có tính chất chỉ
thị do một cơ quan hay một người đưa ra nhằm định hướng, tổ chức hoạt động của tập
thể lao động thực hiện mục tiêu quản lý. Ra quyết định là việc lựa chọn các mục
tiêu cũng như nguồn lực và đề ra các phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu
đó.
Quyết định quản lý ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản
lý bởi vì một quyết định đúng đắn, kịp thời sẽ đem lại sự giàu có, phát triển
ngược lại nếu quyết định sai và không đúng lúc có thể gây trì trệ, ách tắt và
nhiều khi dẫn đến phá sản. Mặt khác chu kỳ sống của một quyết định quản lý
thường trải qua 5 giai đoạn, để phát huy tối đa hiệu quả của quyết định, người
lãnh đạo quản lý phải lựa chọn và ra quyết định kịp thời ngay tại điểm quyết
định phát huy tác dụng ở mức cao nhất và phải thay đổi quyết định khi quyết định thể hiện sự trì trệ, kìm hãm
sự phát triển.
Do quyết định quản lý là sản phẩm của chủ thể quản lý
nên nội dung của nó thường chứa đựng ý chí chủ quan của người quản lý chi phối
như : cá tính, quan điểm, trình độ năng lực nhận thức và vận dụng quy luật của
người lãnh đạo quản lý. Cho nên, để đảm bảo cho các quyết định quản lý có chất
lượng thì khi đề ra các quyết định phải dựa trên các cơ sở khách quan. Đó là :
yêu cầu của quy luật khách quan tác động tới đối tượng quản lý; đặc điểm và xu
thế phát triển của đối tượng quản lý và điều kiện vật chất và thời gian có thể
thực hiện quyết định. Quyết định quản lý cũng mang những đặc điểm khác như : do chủ thể quản lý ban hành và chỉ đề ra
khi các vận đề đã chín muồi, quyết định hướng trực tiếp vào tổ chức, hoạt động
của đối tượng quản lý và có liên quan trực tiếp tới quá trình thu nhận, xứ lý
thông tin, lựa chọn phương tiện hoạt động và
cuối cùng là phải được hình thành trên cơ sở hiểu biết quy luật và sự
vận động của hệ thống quản lý, ra quyết
định.
Vì tính chất
quan trọng của quyết định quản lý nên nội dung của quyết định quản lý phải đảm
bảo các yêu cầu như phải mang : tính khoa học, tính toàn diện, tính khả thi,
tính thống nhất, tính kịp thời, tính hiệu quả, tính linh hoạt và tính hợp pháp.
Một quyết định khoa học là quyết định
phù hợp với định hướng, mục tiêu của tổ chức, phù hợp với quy luật, nguyên tắc,
nguyên lý khoa học và xu thế khách quan, phù hợp với điều kiện cụ thể, với tình
huống cần đưa ra quyết định và được xây dựng dựa trên cơ sở vận dụng các phương
pháp khoa học. Một quyết định toàn diện
là quyết định có nội dung bao quát được nhiều vấn đề, thỏa mãn cao các mục
tiêu, phù hợp với những ràng buộc nhất định, được sự ủng hộ của số đông. Quyết
định có tính thống nhất cao là quyết
định được ban hành bởi các cấp, các bộ phận chức năng phải thống nhất theo cùng
một hướng do mục tiêu chung xác định và các quyết định được ban hành tại các
thời điểm khác nhau thì không được mâu thuẩn, trái ngược và phủ định (những quyết định nào hết hiệu lực phải được
bãi bỏ). Một quyết định của tính kịp
thời là quyết định ban hành vào thời điểm quyết định có hiệu quả cao nhất,
đáp ứng được sự mong đợi của đối tượng quản lý. Một quyết định linh hoạt là quyết định phản ánh được
mọi nhân tố mới trong lựa chọn quyết định, phản ánh được tính thời đại, đáp ứng
được sự biến đổi môi trường mà quyết định ra đời và thực hiện. Quyết định hợp pháp, hiệu quả và khả thi là quyết
định đúng thẩm quyền ban hành, thủ tục, thể thức, không trái với pháp luật quy
định; mang lại hiệu quả kinh tế và có khả năng thực hiện được trong thực
tế
Để tổ chức xây dựng và thực hiện một quyết định, nhà
quản lý phải tuân thủ chặt chẽ những bước trong quá trình ra quyết định và tổ
chức thực hiện quyết định
Quá trình ra
quyết định bao gồm 2 giai đoạn, mỗi
giai đoạn thực hiện nhiều bước.
Giai đoạn chuẩn bị :
giai đoạn này nhà quản lý thực hiện việc phát hiện những vấn đề mà yêu cầu của
tổ chức hoặc yêu cầu từ thực tiễn đặt ra, những vấn đề này phải thuộc phạm vi
mình quản lý và thuộc thẩm quyền mình ban hành. Trên cơ sở xác định những vấn
đề cần ra quyết định nhà quản lý sẽ đánh giá tình huống, xác định những mục
tiêu nhiệm vụ phải làm và tìm hiểu những thông tin có liên quan, tác động đến
vấn đề đặt ra. Căn cứ trên việc xác định
những thông tin có liên quan cần phải thu thập và các mục tiêu phải đạt được,
nhà quản lý sẽ dự đoán kết quả, lựa chọn các chỉ tiêu, các tiêu chuẩn để đánh
giá hiệu quả của các phương án và xác định mức độ ưu tiên (trọng số) cho từng
tiêu chí đã đặt ra.
Giai đoạn chủ yếu : bước đầu tiên của giai đoạn này thực hiện thu thập
thông tin để làm rõ nhiệm vụ cần giải quyết (bao gồm những thông tin về môi trường, thị trường, công nghệ, thông tin
về các yếu tố mang tính chính trị :áp lực của nhóm lợi ích, nghiệp đoàn, nhà
nước...). Trên cơ sở các thông tin đã thu thập, nhà quản lý sẽ chọn và mời
những chuyên gia, những nhà chuyên môn sâu cùng tham gia xây dựng chính thức
các nhiệm vụ và các phương án giải quyết vấn đề, thực hiện việc phân tích, so
sánh, đánh giá hiệu quả và khả năng đáp ứng của
các phương án đối với các mục tiêu mong đợi nhằm chọn ra phương án tối
ưu và cuối cùng là ban hành quyết định quản lý. Để chọn lựa phương án tối ưu,
trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, người lãnh đạo quản lý cần thiết phải
tham khảo ý kiến tập thể và các chuyên gia, bảo đảm tinh thần dân chủ thực sự
và tập trung đúng nghĩa. Mặt khác, trong thực tế khi ban hành một quyết định
quản lý, ít khi gặp những trường hợp vấn đề đặt ra hoàn toàn mới, do đó, người
lãnh đạo trước khi ra quyết định mới cần phải đánh giá lại nội dung và kết quả
thực hiện của các quyết định cũ trên cả 2 mặt : cái được và cái chưa được, phân
tích nguyên nhân và những kinh nghiệm rút ra từ đó, những yếu tố hợp lý nào cần
phải được giữ lại. Kinh nghiệm thực tế cũng cho thấy rằng một quyết định đúng
đắn là quyết định có căn cứ và sự phân tích tình hình một cách cụ thể, không
chỉ phân tích tình huống mà còn phân tích xu hướng phát triển của vấn đề. Đối
với những quyết định mà đối tượng thực hiện và chịu sự tác động là lực lượng
đông đảo trong xã hội thì khi chuẩn bị ra quyết định quản lý, nhà quản lý phải
quan tâm tới nhân tố xã hội ảnh hưởng tới quá trình tổ chức thực hiện quyết
định như: điều kiện thực hiện, trình độ nhận thức và phản ứng, thái độ của
người thực hiện, chính sách của Nhà nước, phát triển công nghệ, mục tiêu, thị
trường… Trong trường hợp ở phạm vi nhỏ, tính chất công việc đơn giản có thể cho
phép người lãnh đạo bỏ qua một số bước nào đó trong các bước kể trên.
Quá trình tổ
chức thực hiện quyết định được bắt
đầu kể từ khi quyết định được cấp thẩm quyền phê duyệt. Bước đầu tiên trong quá trình này là lập kế
hoạch triển khai thực hiện quyết định, sau đó tổ chức tuyên truyền giải thích
nội dung, mục đích, ý nghĩa của quyết định đến những đối tượng thực hiện quyết
định. Quá trình triển khai nội dung quyết định cần làm rõ các vấn đề : thực
hiện cái gì ? tại sao thực hiện ? ai thực hiện ? Thực hiện ở đâu ? thời gian
thực hiện ? và thực hiện bằng cách nào ? Việc tuyên truyền giải thích phải được
thực hiện sâu rộng và hướng dẫn thực hiện thống nhất, nhất là đối với những
quyết định bao hàm nhiều nội dung và phức tạp. Tiếp theo đó là khâu tổ chức
thực hiện quyết định, kiểm tra thực hiện quyết định. Việc kiểm tra việc thực
hiện quyết định phải được thường xuyên để kịp thời điều chỉnh quyết định cho
phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Khâu cuối cùng là
việc tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện quyết định : tìm ra những
sai lệch, nguyên nhân sai lệch ấy, phát hiện những nguồn lực chưa khai thác, sử dụng hiệu quả để
rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý ngày càng tốt hơn, hoàn thiện
hơn.
Tóm lại, vấn đề ra quyết định quản lý và tổ chức thực
hiện quyết định là một quá trình không hề đơn giản, nó bao gồm nhiều bước phức
tạp và gắn với nó là sự sáng tạo, nhạy bén của tư duy nhà lãnh đạo quản lý trên
cơ sở thực tiển kết hợp với các phương pháp khoa học và các quy luật khách quan
* Liên hệ phân tích một quyết định cụ thể . Trong thực tiễn cho thấy có những quyết định quản lý
khi ban hành được triển khai rộng rãi và được rất nhiều người đồng tình ủng hộ,
tham gia thực hiện nhưng cũng có những quyết định quản lý rất khó tổ chức triển
khai thực hiện. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, vốn là những vấn đề rất
nhạy cảm trong quần chúng nhân dân. Pháp luật nói chung và pháp luật đất đai
nói riêng đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao
cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, quá trình này cũng
là quá trình đổi mới, quá trình hoàn thiện pháp luật để thích ứng với sự phát
triển của nền kinh tế xã hội. Sự phát triển của pháp luật với sự phát triển của
thực tế trong giai đoạn này không phải lúc nào cũng đạt được sự đồng bộ nhất
nhất mà có lúc, có nơi còn có những khoảng cách mà Nhà nước đã và đang cố gắng
khắc phục tình trạng này.
Lấy ví dụ như
việc ban hành Nghị định 60/NĐ-CP của
Chính phủ ngày 5/7/1994 về việc Quyền
sử dụng nhà ở và Quyền sử dụng đất ở tại đô thị. Nội dung chính của Nghị định
này là nhà nước quy định đối với nhà và đất ở thuộc khu vực đô thị thì
chủ sở hữu nhà và chủ sử dụng đất sẽ
được cấp 1 giấy chứng nhận trên đó có cả 2 quyền : quyền sở hữu nhà ở và quyền
sử dụng đất ở. Đây là một quyết định hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền,
đúng thể thức. Tuy nhiên, về tính khoa học, tính linh hoạt, tính hiệu quả, tính
toàn diện và tính khả thi của quyết định có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét
Về tính khoa học và tính thống nhất, quyết định này có
nhiều yếu tố phù hợp với mục tiêu mà chính phủ và cả người dân mong muốn : đó là nhằm quản lý chặt chẽ hơn tình
hình đất đai - nhà ở tại đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các
chính sách đền bù, giải toả, quy hoạch, chỉnh trang đô thị cũng như các quan hệ
giao dịch khác của người dân (thế chấp, chuyển nhượng ...). Rõ ràng việc gắn cả
2 quyền này vào cùng một giấy chứng nhận sẽ thuận tiện hơn cho người dân khi
thực hiện các quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn ...)
và cũng phù hợp xu thế hình thành một
thị trường bất động sản ở nước ta. Tuy nhiên bản thân của 2 quyền này có
những điểm khác nhau rất cơ bản : đó là đối với quyền sở hữu nhà thì người chủ
sở hữu có thể toàn quyền định đoạt tài sản của mình, họ có thể thế chấp, chuyển
nhượng, thừa kế phần tài sản này cho bất cứ đối tượng nào mà pháp luật không
cấm, tuy nhiên về quyền sử dụng đất đai thì khác, quyền của người sử dụng đất
sẽ có những giới hạn nhất định, do đó có những trường hợp có thể pháp luật về
nhà ở, dân sự không cấm nhưng đối với pháp luật đất đai thì không được phép
chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp... Mặt khác, nội dung của Nghị định còn giao
cho cả 2 ngành Xây dựng và Địa chính trong phạm vi chức năng của mình tổ chức
thực hiện, mỗi ngành với nhân lực và nội dung quản lý riêng nên ban hành hướng
dẫn lại chưa thống nhất. Do đó, Nghị định này còn hạn chế về tính khoa học và
tính thống nhất.
Về tính khả thi, tính toàn diện và tính linh hoạt thì
thực tế cho thấy rằng phương án tổ chức thực hiện mà Nghị định đưa ra là phải
có sự phối hợp của cả hai cơ quan xây dựng và địa chính cùng thực hiện, quản lý
hồ sơ lưu và bản lưu giấy chứng nhận cũng ở cả hai đơn vị, điều này trên thực
tế gây rất nhiều phiền hà cho người dân vì khi có thay đổi nội dung trên giấy
chứng nhận thì phải đến cả 2 cơ quan để xác nhận. Mặt khác, do mỗi cơ quan chức
năng quản lý khác nhau nên cơ quan nào cũng muốn giấy chứng nhận phải thể hiện
đầy đủ những thông tin mình cần quản lý, điều đó càng làm cho quy trình thực
hiện khó khăn hơn nhiều. Lực lượng thực hiện của 2 bên cũng không đồng nhất nên
cùng một nhà và đất ấy phải đo vẽ nhà đất 2 lần. Ngoài ra, có rất nhiều hồ sơ
nhà đất chưa đủ điều kiện cấp giấy nên để được hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận
quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì người dân phải cùng một lúc phải
nộp một khoản tiền khá lớn vừa nhà, vừa đất. Bên cạnh đó, trong quá trình sử
dụng có khi chủ nhà hợp pháp về đất nhưng do nhà xây dựng lấn chiếm không gian
hoặc xây dựng trái phép và không phù hợp với quy hoạch nên không được cấp quyền
sở hữu nhà, do đó người chủ nhà này cũng không được cấp GCN. Từ những vướng mắc
trên cho thấy rằng tính khả thi và tính toàn diện của Nghị định là rất thấp và
sau 10 năm ban hành cả nước cũng chỉ mới cấp được không quá 50% số trường hợp
phải cấp, không thỏa mãn những mục tiêu đã đề ra cũng như không đáp ứng được
những vấn đề mà thực tế diễn ra.
Ví dụ thứ 2 là việc ban hành Quyết định
19/2000/NĐ-CP của Thủ tướng Chính phủ
ngày 03/02/2000 về việc bãi bỏ các loại giấy phép trái quy định của Luật doanh
nghiệp. Nội dung chính của quyết định là
bãi bỏ các loại giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh,
giấy phép hành nghề, chứng chỉ hành nghề và giấy phép dưới hình thức khác trái với Luật doanh nghiệp, kể cả những loại
giấy phép kinh doanh khác do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ
và do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành mà không
căn cứ vào luật, pháp lệnh, nghị định, nhưng chưa được liệt kê vào Danh mục kèm
theo Quyết định 19. Đối với điều kiện kinh doanh xét thấy cần thiết phải có
giấy phép thì các cơ quan hữu quan phải trình Chính phủ ban hành nghị định để
thực hiện đúng quy định tại Điều 6 Luật Doanh nghiệp.
Đây là quyết
định ban hành hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức. Quyết
định này cũng mang tính khoa học và mang tính hiệu quả cao bởi vì nó phù hợp
với xu hướng cải cách hành chính, giảm bớt những thủ tục phiền hà và gây trở
ngại cho doanh nghiệp, nhờ đó có tác động tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng phát
triển kinh tế. Quyết định này mang tính toàn diện vì những vấn đề mà quyết định
nêu bao hàm rất nhiều ngành, (khoa học công nghệ, môi trường, Thương mại, hải
quan, Thủy sản, tài chính, công nghiệp, bưu điện, du lịch, y tế, lao động –
thương binh xã hội, văn hóa thông tin,
giao thông vận tải, xây dựng, nông nghiệp, kế hoạch đầu tư ...). Quyết định nàu
cũng mang tính linh hoạt vì nội dung của quyết định còn bao hàm cả những trường
hợp mà quyết định chưa xác định kịp
nhưng dự đoán sẽ có xảy ra trong thực tế. Quyết định này cũng mang tính khả thi
cao vì phù hợp với nguyện vọng của đối tượng chịu tác động (các doanh nghiệp)
cũng như của những nhà quản lý có đạo đức nghề nghiệp. Quyết định này cũng thống nhất với nội dung
của Luật doanh nghiệp và chủ trương cải cách hành chính của Đảng và nhà nước ta
I- YÊU CẦU
- Nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm
vụ và giải pháp được đề ra trong Nghị quyết của Bộ Chính trị nhằm tạo sự chuyển
biến mạnh mẽ về nhận thức và tổ chức thực hiện của các cấp uỷ đảng, chính
quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và
nhân dân đối với công tác thể dục, thể thao.
- Việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị phải được tiến
hành thường xuyên, thông qua các chương trình hoặc kế hoạch hành động cụ thể,
thiết thực, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng sở, ban, ngành, mặt trận
tổ quốc và các đoàn thể ở từng địa
phương, cơ sở nhằm tạo “nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể
dục, thể thao”.
3- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, định kỳ đánh giá, sơ tổng
kết việc thực hiện Nghị quyết ở các cấp uỷ đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam Tỉnh và các đoàn thể chính trị - xã hội để rút kinh
nghiệm, phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh.
II- NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan,
đơn vị; Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức phổ biến, quán triệt
đến từng cán bộ đảng viên và nhân dân với các hình thức phù hợp từng địa
phương, đơn vị
a)- Ban thường vụ cấp uỷ huyện và tương
đương tổ chức hội nghị triển khai, quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ
Chính trị khoá XI cho cán bộ chủ chốt do cấp mình quản lý.
Thời hoàn thành trước 15 tháng 5 năm 2012.
b)- Đối với cán bộ, đảng viên và công chức, viên chức:
Đảng bộ,
chi bộ cơ sở, thủ trưởng đơn vị triển khai, quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW
của Bộ Chính trị khoá XI cho đảng viên, cán bộ công chức, viên chức thuộc đơn
vị mình vào kỳ sinh hoạt chi bộ, cơ quan.
Thời
gian: hoàn thành trước 15 tháng 6 năm 2012.
c)- Đối với thành viên Mặt trận
Tổ quốc và đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị xã hội xã, phường, thị
trấn:
Cấp uỷ chỉ đạo Uỷ ban Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết
số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI kết hợp lồng ghép vào các kỳ sinh hoạt chi
hội, tổ hội.
d)- Các cơ
quan thông tin đại chúng trong Tỉnh có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết của
Bộ Chính trị, tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức của các cấp, các ngành và
toàn xã hội đối với công tác thể dục, thể thao; cổ vũ động viên các tập thể và
cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong các hoạt động thể dục, thể thao.
2- Về xây dựng
chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính
trị khoá XI
-
Ban cán sự đảng Uỷ ban nhân dân Tỉnh giúp Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xây dựng
Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá
XI “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục,
thể thao đến năm 2020”.
- Các huyện uỷ, thị uỷ, thành uỷ,
đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ cụ thể hoá bằng chương trình hành động, kế hoạch
thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI, tập trung vào những
nội dung chủ yếu sau:
Một là, phát triển phong trào thể
dục thể thao quần chúng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục thể
chất và thể thao trong trường học.
Tiếp tục triển khai phong trào
“Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” với những hình thức
thiết thực, nhằm tăng thêm số lượng người tập thể dục thể thao thường xuyên và
chất lượng, hiệu quả của phong trào.
Xây dựng và triển khai đề án phát
triển giáo dục thể chất và thể thao trường học trên địa bàn.
Triển khai các biện pháp đẩy mạnh
phong trào thể dục thể thao trong lực lượng vũ trang, công chức, viên chức,
nông dân, phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, người cao tuổi, người lao động trong
các khu công nghiệp… Tùy theo đặc điểm từng địa phương, cần đặc biệt quan tâm
phát triển thể dục thể thao ở vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Chỉ đạo hình thành mới hoặc kiện
toàn các thiết chế thể dục thể thao, như các câu lạc bộ thể dục thể thao, các
điểm tập luyện trong cộng đồng dân cư, cùng với việc xây dựng đội ngũ cán bộ,
hướng dẫn viên thể dục thể thao ở cơ sở.
Quy hoạch và dành đất cho hoạt
động thể dục thể thao; bố trí sân tập, các không gian dành cho hoạt động thể
dục thể thao, trang thiết bị tập luyện; khuyến khích, tạo điều kiện cho các
doanh nghiệp, tư nhân tham gia đầu tư, cung ứng các dịch vụ thể dục thể thao,
đáp ứng nhu cầu luyện tập của nhân dân.
Hai là, mở rộng và nâng cao hiệu
quả công tác đào tạo tài năng thể thao, phát triển thể thao thành tích cao trên
từng địa bàn.
Ba là, đổi mới tổ chức, quản lý,
nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước trong lĩnh vực thể dục thể thao; phát
triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực thể dục thể thao.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo,
chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền. Đưa các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển
thể dục, thể thao vào văn kiện của đại hội Đảng các cấp, các chiến lược, chính
sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; huy động cộng đồng tham gia
tích cực vào các hoạt động phát triển thể dục, thể thao. Đặc biệt quan tâm công
tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị.
4- Về kiểm
tra, đánh giá thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị
Các cấp uỷ đảng có kế hoạch chỉ
đạo việc kiểm tra, đánh giá định kỳ hoặc đột xuất; sơ kết, tổng kết việc thực
hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, báo cáo cấp ủy cấp trên. Việc kiểm tra, đánh
giá cần được đổi mới cả về nội dung, phương pháp và hình thức tiến hành; coi
trọng việc phát hiện, nhân rộng những nhân tố mới, mô hình điển hình trong quá
trình triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị.
III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
-
Ban tuyên giáo huyện uỷ, thị uỷ, thành uỷ, ban tuyên giáo (tuyên huấn) các đảng
uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ tham mưu ban thường vụ cấp uỷ chỉ đạo các cơ quan liên
xây dựng Chương trình hành động và Kế hoạch thực hiện Nghị quyết của ban thường
cấp uỷ cùng cấp; chỉ đạo, hướng dẫn việc học tập, quán triệt Nghị quyết; chỉ
đạo và triển khai thực hiện theo đúng thời gian quy định.
- Đảng đoàn Uỷ ban Mặt
trận Tổ quốc Việt Nam Tỉnh và các đoàn thể chính trị- xã hội Tỉnh: xây dựng kế hoạch tuyên
truyền, vận động và tổ chức phát động phong trào “Toàn
dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” với những hình thức thiết
thực, nhằm tăng thêm số lượng người tập thể dục thể thao thường xuyên và chất
lượng, hiệu quả của phong trào.
-
Sau khi kết thúc đợt học tập ở từng cấp, ban tuyên giáo các huyện uỷ, thị uỷ,
thành uỷ, ban tuyên giáo (tuyên huấn) các đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ báo cáo
kết quả về Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ để
tổng hợp, báo cáo về Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Ban Tuyên giáo Trung ương.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét