Tiểu
luận
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt
Nam
Phần I: Phần Mở Đầu ........................................................................................................ 1
Phần II Phần Nội Dung ..................................................................................................... 3
Chương I : Khái quát về CNH-HĐH ở nông thôn Việt Nam............................................ 3
I. Các quan niệm.......................................................................................................... 3
II. Công nghiệp hoá nông
nghiệp nông thôn............................................................... 3
III.Hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn................................................................. 4
Chương II :Tính tất yếu
và tầm quan trọng của công nghiệp hoá và hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn 6
I.Tính tất yếu của
CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam.......................... 6
II.Tầm quan trọng của
CNH-HĐH nông nghiệp ở nông thôn................................... 7
1. Cung cấp lương thực
thực phẩm cho xã hội.................................................... 8
2. Cung cấp nguyên liệu
để phát triển công nghiệp nhẹ....................................... 8
3.Cung cấp một phần vốn
để công nghiệp hoá..................................................... 8
4.Nông nghiệp nông thôn
là thị trường quan trọng của các ngành công nghiệp và dịch vụ. 8
5. Phát triển nông
nghiệp là cơ sở để ổn định kinh tế, chính trị , xã hội.............. 9
III. Nội dung của công
nghiệp hoá ,hiện đại hoá đất nước........................................ 9
1. Nội dung hiện đại hoá
nông nghiệp nông thôn.............................................. 12
2.Phát triển chế biến
nông lâm sản..................................................................... 13
3.Trung tâm công nghiệp
ở nông thôn............................................................... 15
4.Phát
triển hệ thống dịch vụ ở nông thôn theo hướng
CNH-HĐH................ 17
5.Cơ khí hoá,điện khí
hoá ở nông thôn.............................................................. 18
6.Phát triển công nghiệp
nông thôn,khâu mẫu chốt trong việc phát triển nhanh bền vững. 19
Chương III.Thực trạng và
các giải pháp thúc đẩy CNH-HĐH ở nông thôn
trong thời gian tới. ......................................................................................... 25
I.Thực trang công nghiệp
hóa ,hiện đại hoá ở nông thôn Việt Nam........................ 25
1.Thuận lợi và những
thành tựu đạt được.......................................................... 25
2.Khó khăn thách thức và
những vấn đề tồn tại................................................ 27
II.Quan điểm và những
giải pháp thúc đẩy nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn tới. 29
1.Quan điểm thúc đẩy
nông nghiệp nông thôn trong giai đoạn tới.................... 29
2.Giải pháp đẩy mạnh
công nghiệp hoá,hiện đại hoá......................................... 33
Chương III. Phần tổng
kết................................................................................................. 37
PHẦN I
PHẦN MỞ ĐẦU
Công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngày nay
đang là nhiệm vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội, là chủ
trương đúng đắn của Đảng và nhà nước ta.
Từ một nước nông nghiệp, 80% dân cư sống ở
nông thôn, lao động nông nghiệp chiếm 70% lao động của xã hội, Đảng ta đã không
những coi trọng nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đật nước mà còn đặc biệt
nhấn mạnh nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn. Đây là
tình trạng tất yếu để đưa nước ta thoát khởi tình trạng nghèo nàn,lạc hậu, xây
dựng một nền nông nghiệp hiện đại văn minh.
Trong
những năm qua, công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông thôn đã bắt đầu thực hiện và
đạt dược một số thành tựu nhất định, cơ sở vật chất- kỹ thuật trên một số mặt
cũng được tăng cường. Tuy nhiên kết quả còn hạn chế ở một số vùng nhất định.
Cho đến nay nhiều vùng nông thôn nhất là vùng sâu ,vùng xa, đời sống nhân dân
còn gặp nhiều khó khăn,kết cấu hạ tầng còn lạc hậu, kỹ thuật thô sơ chủ yếu dựa
vào kỹ thuật lâu đời mà chưa dựa trên cơ sở khoa học, năng suất lao động còn
thấp, sức cạnh tranh yếu, chưa thực hiện được quá trình công nghiệp hoá,hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn hoặc thực hiện còn lúng túng, khó khăn.
Chính vì vậy, tại Đại hội toàn quốc lần
thứ IX, Đảng ta đã khẳng định''mục tiêu của chiến lược phát triển kinh tế xã
hội năm 2002-2003 là:Đưa nước ta thoát khởi tình trạng kém phát triển, nâng cao
rõ rệt đời sống vật chất và tinh thần cho nhân dân, tạo nền tảng để năm 2020
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại". Trong
đó, phát triển nông, lâm, ngư ngiệp và kinh tế nông thôn là mục tiêu hàng đầu
của chính sách phát triển các nghành từ nay tới năm 2010.
Để
thực hiện đúng và hiệu quả nhiệm vụ trọng tâm là công nghiệp hoá hiện đại hoá
nông nghiệp và nông thôn trước hết cần có nhận thức đúng đắn về lý luận và thực tiễn cũng như cần nắm vững
đặc điểm, tính chất, nội dung của vấn đề công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông
nghiệp hoá và nông thôn ở nước ta. Phục vụ cho nhu cầu nghiên cứu học tập, tích
luỹ kiến thức cho môn học này nên em chọn đề tài: "Công nghiệp hoá
,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam".
Do thời gian có hạn nên trong bài tiểu luận này em chỉ xin trình bày
ngắn gọn trong 3 chương:
Chương I : Khái quát về công nghiệp
hoá,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam.
Chương II:Tính tất yếu và tầm quan trọng
của công nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam.
Chương III :Thực trạng và các giải pháp
thúc đẩy CNH-HĐH nông nghiệp ở nông thôn trong thời gian tới .
Đối với em, đứng trước một đề tài lớn đòi
hỏi phải có sự hiểu biết sâu rộng như đề này sẽ không tránh khởi những sai sót
ngoài ý muốn. Em rất mong được sự nhận xét phê bình của thầy để bài viết được
hoàn chỉnh hơn .
Em
xin trân thành cảm ơn .
PHẦN I
Nội Dung
Chương I : KHÁI QUÁT VỀ CÔNG NGHIỆP HOÁ HIỆN ĐẠI HOÁ
NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN Ở VIỆT NAM
I- Các
quan niệm về công nghiệp hoá
Trong
lịch sử phát triển của hầu hết các nước có nên kinh tế phát triển, công nghiệp
hoá là biện pháp cốt lõi để biến nền kinh tế nông nghiệp lạc hậu thành nền kinh
tế hiện đại ,có công nghiệp giữ vai trò
chủ đạo trong quá trinh phát triển.Tuy nhiên,bản thân khái niệm "Công
nghiệp hoá " lại chưa quan niệm một cách thống nhất. Do vậy,
chính sách thực hiên cũng khác nhau.
Khái
niệm "Công nghiệp hoá " mang tính chất lịch sử. Nó gắn bó trước hết
với sự suất hiện của máy móc và sự thay thế lao động thủ công bằng lao động cơ
khí hay còn gọi là cách mạng khoa học lần thứ nhất .
Cuộc cách mạng này diễn ra ở nước Anh ,sau
đó nó lan truyền sang một số nước khác
nhưng mãi tới thế kỷ 19 thuật ngữ " công nghiệp hoa " mới suất hiện
và đến nửa sau thế kỷ 20 mới được dùng
phổ biến .
Tổ chức phát triển công nghiệp của Liên
Hợp Quốc (UNIPO) đã đưa ra định nghĩa
sau : "Công ngiệp hoá là một quá trình phát triển kinh tế trong đó một bộ
phận nguồn lực quốc gia ngày càng lớn được xây dưng để huy động cơ cấu kinh tế
nhiều nghành với công nghệ hiện đại để chế tạo ra các phương tiện sản xuất,hàng
tiêu dùng có khả năng bảo đảm nhịp độ tăng rrưởng cao trong toàn nền kinh tế và
bảo đảm sự tiến bộ kinh tế và xã hội".
II- Công nghiệp hoá nông
nghiệp và nông thôn :
Công
nghiệp hoá nông thôn :Theo tinh thần của đai hội Đảng toàn quốc trung ương lần
thứ 7 (khoáVII ) Công nghiệp hoá nông thôn là quá trình chuyển giao cơ cấu kinh
tế gắn liền với việc đổi mới cơ bản về công nghệ và kỹ thuật ở nông thôn,tạo
nền tảng cho việc phát triển nhanh,bền vững theo hướng nâng cao hiệu quả kinh
tế ở nông thôn,góp phần phát rriển bền vững nền kinh tế quốc dân với tốc độ cao
.
Quá trình công nghiệp hoá nông thôn bao
gồm :
+Đưa phương pháp sản xuất công nghiệp máy
móc thiết bị vào sửdụng trong nông nghiệp và sản xuất ở nông thôn thay thế lao
động thủ công .
+Tạo ra hệ thống cơ sở hạ tầng thích hợp
với việc đưa máy móc công, thiết bị và công nghệ vào nông nghiêp và nông thôn .
+Áp dụng phương pháp quản lý mới hiện đại
tương ứng với thiết bị và công nghệ vào nông nghiệp và nông thôn .
Công nghiệp hoá nông nghiệp : Đây là một
bộ phận của công nghiệp hoá nông thôn .Nội dung chủ yếu là đưa các máy móc
thiệt bị,ứng dụng các phương pháp sản xuất kiểu công nghiệp,các phương pháp và
hình thức kiểu công nghiệp vào các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp .
Công nghiệp hóa nông nghiệp còn bao hàm cả
việc tạo ra gắn bó chặt chẽ giữa sản xuất nông nghiệp và sản xuất công nghiệp
nhăm khai thác triệt để lợi thế của nông nghiệp,nâng cao hàm lượng chế biến sản
phẩm của nông
Nghiệp để tăng giá trị của chúng ,mở rộng thị
trường cho chúng .
III - Hiện đại hoá nông
nghiệp và nông thôn
- Khái
niệm : Đây là quá trình liên tục nâng cao trình độ khoa học - kỹ thuật vào công
nghệ sản xuất và đời sống ở nông thôn, cải tiến và hoàn thiện tổ chức sản xuất
và tổ chức đời sống ở nông thôn,tạo ra một nền sản xuất có trình độ ngày càng
cao,cuộc sống ngày càng văn minh ,tiến bộ .
- Hiện đại hoá nông thôn : Quá rrình này
không chỉ bao gồm công nghiệp hoá,nâng cao trình độ kỹ thuật công nghệ và tổ
chức trong các lĩnh vực khác của sản xuất vật chất ở nông thôn mà còn bao gôm
không ngừng việc nâng cao đời sống văn hoá tinh thần ,phát triển hệ thống cơ sở
hạ tầng xã hội,hệ thống giáo dục đào tạo,y tế và các dịch vụ phục vụ đời sống
khác ở nông thôn .Về bản chất,hiện đại hoá là quá trình phát triển toàn diện có
kế thừa ở nông thôn .
Nếu hiện đại hoá là xoá bỏ toàn bộ những gì tạo dựng trong
quá khứ và phải đưa toàn bộ công nghệ thiết bị tiên tiến hiện đại vào nông thôn
ngay một lúc là toàn bộ sai lầm .
Hiện đại hoá nông thôn là tận dụng,cải tiến, hoàn thiện từng
bước nâng cao trình độ khoa học -kỹ thuật - công nghệ và tổ chức quản lý nền
sản xuất và đời sống xã hội ở nông thôn lên ngang tầm với trình độ thế giới .
- Hiện đại hoá nông nghiệp :
Khái niệm : Là quá trinh không ngừng nâng cao
trình độ-khoa học- công nghệ, trình độ tổ chức và sản xuất nông nghiệp .Đây
cũng là quá trình cần được tổ chức liên tục vì
luôn có những tiến bộ khoa học kỹ thuật mới xuất hiện và được ứng dụng
trong sản xuất .
Chúng
ta thấy rằng giữa công CNH và HĐH có sự liên quan mật thiết với nhau .Thực tế
diễn ra trong quá trình chuyển đổi cơ cấu kinh tế ở nhiều vùng nước ta đã chứng
tỏ : Nông nghiệp không thể mở rộng quy mô sản xuất ở ngay những vùng có tiềm
năng nhưng thiếu cơ sở hạ tầng,thiếu phương tiện và công cụ sản xuất. Để mở
mang các vùng kinh tế,xây dưng các vùng chuyên canh có hiệu quả, nông nghiệp
phải trông cậy vào công nghiệp,chỉ có công nghiệp mới tạo ra và cung cấp cho nông nghiệp những
phương tiện cần thiết để tiến hành các quá trình sản xuất bằng những công nghệ
đem lại hiệu quả kinh tế cao, đặc biệt là khai thác và sử dụng hợp lý tiềm năng
lao động ở nông thôn.
Chương II
TÍNH TẤT YẾU VÀ TẦM QUAN
TRỌNG CỦA CNH-HĐH NÔNG NGHIỆP NÔNG THÔN ỞVIỆT NAM
I - Tính tất yếu của
CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam .
Tính
tất yếu của công nghiệp hoá ,hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở Việt Nam :
Đại hội
đảng VII của Đảng đã khẳng định :Với những thắng lợi to lớn của 10 năm đổi mới
dưới sự lãnh đạo của Đảng,đất nước ta bước vào thời kỳ phát rriển mới - thời kỳ
đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm mục tiêu xã hội công bằng văn minh
vững bước tiến lên chủ nghĩa xã hội ... Từ nay đến năm 2020 ra sức phấn đấu đưa
nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp,trong chặng đường vươn tới mục
tiêu đó đại hội nhấn mạnh nội dung cơ bản của công nghiệp hoá ,hiện đại hoá
trong những năm tới là phải đặc biệt coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp và nông thôn
.Vậy tại sao chúng ta phải coi trọng CNH-HĐH nông nghiệp nông nghiệp nông thôn
thì mới có thể thực hiện thành công được mục tiêu đó ?
Để trả
lời vấn đề này ,ta có thể đề cập tới những yếu tố sau :
- Công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn sẽ tạo tiền đề và cơ sở vững
chắc thúc đẩy toàn bộ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế đất
nước .
Ở các
nước chậm phát triển,tỷ lệ đóng góp của nông nghiệp vào GDP là rất lớn và tuyệt
đại đa số dân cư là nông dân ,ở Việt Nam ,lao động nông nghiệp chiếm 70% lực
lượng lao động xã hội . Nếu như nền kinh tế không có vốn nước ngoài,chiến lược
phát trỉên công nghiệp ở các nước này trong giai đoạn đầu tất nhiên phải dựa vào tích luỹ nông nghiệp
.Hơn nữa,nông nghiệp phát triển, đời sống nông dân được nâng cao thì họ mới có
sức mua để tiêu thụ hàng hoá nội đại .Phân tích như vậy ta mới thấy được vai
trò quan trọng của nông nghiệp trong việc tích luỹ vốn cho giai đoạn đầu của
quá trình phát triển kinh tế .Sự ổn định chính trị để phát triển cũng đòi hỏi
nó có bước thăng tiến trong đời sống của tuyệt đại đa số nhân dân,tức là nông
dân .
Do
vậy,đối với Việt Nam, một đất nước chậm phát triển ,để thúc đẩy quá trình công
nghiệp hoá,hiện đại hoá nền kinh tế đất nước thì ta phải đặc biệt coi trọng
CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn .
- Mặt
khác, CNH-HĐH nông nghiệp nông thôn là
mũi đột phá quan trọng nhằm giải phóng sức lao động của giai cấp nông dân ,tạo
điều kiện khai thác tốt nhất tiềm năng dồi dào về đất đai và lao động .
Với
nguồn lao động dồi dào ,đây là một lợi thế tương đối quan trọng để tiến hành
công nghiệp hoá ,hiện đại hoá ở nông thôn .Ngược lại ,khi quá trình đó diễn
ra,nó lại giải phóng sức lao động ở nông thôn tạo thêm nhiều việc làm cho người
lao động .Hơn nữa,nước ta có một nguồn
tài nguyên về đất đai vô cùng phong phú,trước đây mới chỉ khai thác bằng
những kỹ thuật lạc hậu,qua kinh nghiệm
lâu đời .Thực hiện công nghiệp hoá ,hiện đại hoá nông thôn ta có thể khai
thác tốt nhất tiềm năng về đất đai để phục vụ sự nghiệp phát rriển đất nước .
II - Tầm quan trọng của
công nghiệp hoá ,hiên đại hoá nông
nghiệp nông thôn ở Việt Nam .
Nông nghiệp theo nghĩa hẹp là nghành sản xuất ra của cải vật chất mà con
người phải dựa vào quy luật sinh trưởng của cây trồng và vật nuôi để tạo ra sản
phẩm như lương thực ,thực phẩm ... để thoả mãn các nhu cầu của mình .Nông
nghiệp theo nghĩa rộng nó còn bao gồm cả lâm nghiệp ,ngư nghiệp .
Như vậy
,nông nghiệp là nghành sản xuất phụ thuộc nhiều vào tự nhiên .Những điều kiện tự nhiên như đất đai, nhiệt
độ, độ ẩm, lượng mưa, bức xạ mặt trời ... trực tiếp ảnh hưởng tới năng suất sản
lượng cây trồng vật nuôi. Nông nghiệp cũng là nghành sản xuất có năng suất lao
động rất thấp, vì đây là nghành sản xuất phụ thuộc rất nhiều vào tự nhiên; là
ngành sản xuất mà việc ứng dụng khoa học - công nghệ gặp rất nhiều khó khăn . Ngoài ra sản xuất
nông nghiệp ở nước ta còn gắn liền với nhiều phương thức canh tác, lề thói, tập
quán ..đã có từ ngàn năm nay .
Nông
thôn là khái niệm dùng chỉ một địa bàn
mà ở đó sản xuất nông nghiệp chiếm tỷ trọng lớn .Nông thôn có thể xem xét trên
nhiều góc độ :kinh tế ,chính trị ,văn hoá ,xã hội ... Kinh tế nông thôn là một
khu vực của nền kinh tế gắn liền với địa bàn nông thôn .Kinh tế nông thôn vừa
mang những đặc trưng chung của nền về lực lượng sản xuất và quan hệ sản xuất
,về cơ chế kinh tế ... vừa có những đặc điểm riêng gắn liền nông nghiệp nông
thôn .
Xét về
mặt kinh tế - kỹ thuật ,kinh tế nông thôn có thể bao gồm nhiều ngành kinh tế
như : nông nghiệp ,lâm nghiệp ,ngư nghiệp,tiểu thủ công nghiệp,dịch vụ ...
trong đó nông nghiệp,lâm nghiệp ,ngư nghiệp là nganh kinh tế chủ yếu .Xét về
mặt kinh tế xã hội, kinh tế nông thôn cũng bao gồm nhiều thànhphần kinh tế :
kinh tế nhà nước,kinh tế tập thể,kinh tế cá thể ..Xét về không gian lãnh thổ
,kinh tế nông thôn bao gôm các vùng như : vùng chuyên canh lúa, vùng chuyên
canh cây màu ,vùng chuyên canh cây ăn quả .
Nông
nghiệp nông thôn có những vai trò chủ yếu sau :
1.Cung
cấp lương thực thực phẩm cho xã hội .
Nhu cầu
ăn là nhu cầu cơ bản ,hàng đầu của con người ,xã hội có thể thiếu nhiều loại
sản phẩm nhưng không thể thiếu,lương thực, thực phẩm cho xã hội .Do đó,việc
thoả mãn các nhu cầu về lương thực, thực phẩm trở thành điều kiện khá quan
trọng để ổn định xã hội,ổn định kinh tế. Sự phát triển của nông nghiệp có ý
nghĩa quyết định đến vấn đề này .
Đảm bảo
về nhu cầu về lương thực ,thực phẩm không chỉ là yêu cầu duy nhất của nông
nghiệp,mà còn là xơ sở phát triển các mặt khác của đời sống kinh tế -xã hội .
2.
Cung cấp nguyên liệu để phát triển công nghiệp nhẹ .
Các ngành công nghiệp nhẹ như : chế biến
lương thực thực phẩm, chế biến hoa quả, công nghiệp dệt, giấy, đường ... phải
dựa vào nguồn nguyên liệu chủ yếu là nông nghiệp .Quy mô, tốc độ tăng trưởng
của các nguồn nguyên liệu là nhân tố quan trọng quyết định quy mô, tốc độ tăng
trưởng của các ngành công nghiệp này .
3.Cung
cấp một phần vốn để công nghiệp hoá .
Công
nghiệp hóa là nhiệm vụ trung tâm trong suốt cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội .Để công nghiệp hoá thành công đất nước phải giải quyết rất nhiều vấn đề và
phải có vốn. Là một nước nông nghiệp thông qua quá trình xuất khẩu nông sản
phẩm, nông nghiệp, nông thôn có thể góp phần giải quyết tốt nhu cầu về vốn cho
nền kinh tế .
4. Nông
nghiệp nông thôn là thị trường quan trong của các ngành công nghiệp và dịch vụ
.
Với
những nước lạc hậu, nông nghiệp ,nông thôn tập trung phần lao động và dân cư,do
đó ,đây là thị trường quan trọng của công nghiệp và dịch vụ .Nông nghiệp, nông
thôn càng phát triển thì nhu cầu về hàng hoá và tư liệu sản xuất như :thiết bị
nông nghiệp,điên năng,phân bón ,thuốc trừ sâu ... càng tăng,đồng thời các nhu
cầu về dịch vụ cho sản xuất nông nghiệp như : vốn,thông tin ,giao thông vận
tải,thương mại ...cũng càng ngày càng tăng . Mặt khác,sự phát triển của nông
nghiệp ,nông thôn làm cho mức sống,mức thu nhập của dân cư nông thôn tăng lên
và nhu cầu của họ về các loại sản phẩm công nghiệp như ti vi ,tủ lạnh,xe
máy,vải vóc ... và các nhu cầu về dịch vụ như văn hoá ,y tế ,giáo dục ,dịch vụ
,thể thao...cũng càng ngày càng tăng .
Nhu cầu
về các loại sản phẩm công nghiệp và dịch vụ của khu kinh tế rộng lớn là nông
nghiệp ,nông thôn góp phần đáng kể mở rộng thị trường của công nghiệp và dịch
vụ . Đây là điều kiện thuận lợi cho sự phát triển của công nghiệp ,dịch vụ .
5. Phát
triển nông nghiệp, là cơ sở ổn định kinh tế, chính trị, xã hội .
Nông
thôn là khu vực kinh tế rộng lớn,tập trung phần lớn dân cư của đất nước .Phát
triển kinh tế nông thôn một mặt đảm bảo nhu cầu lương thực thực phẩm cho xã
hội,nguyên liệu cho công nghiệp nhẹ,là thị trường của công nghiệp và dịch vụ
...Do đó ,phát triển kinh tế nông thôn là cơ sở ổn định phát triển nền kinh tế
quốc dân .Mặt khác ,phát triển kinh tế nông thôn trực tiếp nâng cao đời sống
vật chất, tinh thần cho cư dân nông thôn .Do đó, phát triển là cơ sở ổn định
chính trị, xã hội. Hơn thế nữa, cư dân nông thôn chủ yếu là nông dân, người bạn
đồng minh, là chỗ dựa đáng tin cậy của giai cấp công nhân trong công cuộc xây
dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ tổ quốc xã hội chủ nghĩa, phát triển nông
nghiệp, nông thôn góp phần củng cố liên minh công nông, tăng cường sức mạnh của
chuyên chính vô sản .
III-
Nội dung của công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước ở Việt Nam .
Tại đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta đã định hướng phát triển ngành nông
nghiệp,lâm nghiệp, ngư nghiệp và kinh tế
nông thôn theo 4 chuyên mục sau :
(1)-Đẩy
nhanh công nghiệp hoá ,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn theo hướng hình
thành nên nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện
sinh thái của từng vùng ;chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động,tạo
việc làm thu hút nhiều lao động ở nông
thôn.đưa nhanh tiến bộ khoa học và kỹ thuật vào sản xuất nông nghiệp ,đạt mức
tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và về thu nhập trên một đơn vị
diện tích;tăng năng suất lao động,nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản
phẩm .Mở rộng thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước ,tăng đáng kể
thị phần của các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới .
Chú
trọng điện khí hoá, cơ giới hoá nông thôn. Phát triển mạnh công nghiệp chế biến
gắn liền với vùng nguyên liệu, cơ khí phục vụ cho nông nghiệp và công nghệ gia
công và dịch vụ; liên kết nông nghiệp - công nghiệp - dịch vụ trên từng đại bàn
trong cả nước .
Tăng
đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng kinh tế,xã hội nông thôn. Quy hoạch hợp lý và
nâng cao hiệu quả của việc sử dụng đất, nguồn nước vốn rừng gắn liền với bảo vệ
môi trường. Quy hoạch các khu dân cư, phát triển các thị trấn, thị tứ, các điểm
văn hoá ở làng xã; nâng cao đời sống vật chất tinh thần, xây dựng cuộc sống dân
chủ, công bằng văn minh ở nông thôn .
(2)-Xây
dựng hợp lý cơ sở sản xuất nông nghiệp. Điều chỉnh quy hoạch sản xuất lương
thực phù hợp với nhu cầu và khả năng tiêu thụ, tăng năng suất đi đôi với nâng
cấp chất lượng. Bảo đảm an ninh lương thực trong từng tinh huống. Xây dựng vùng
tập trung lúa hàng hoá và ngô làm thức ăn chăn nuôi;tận dụng điều kiện thích
hợp của các địa bàn khác để sản xuất lương thực có hiệu quả. Nâng cao giá trị
và hiệu quả xuất khẩu gạo. Có chính sách bảo đảm lợi ích của người sản xuất
lương thực .
Phát
triển theo quy hoạch và chú trọng đầu tư thâm cach các vùng cây công nghiệp như
cà phê, cao su, chè, điều, dừa, dâu tằm, bông, mía, lạc, thuốc lá..., hình
thành các vùng rau, hoa, quả có giá trị cao gắn liền với phát triển cơ sở bảo
quản, chế biến .
Phát
triển và nâng cao chất lượng, hiệu quả chăn nuôi gia súc, gia cầm; mở rộng
phương pháp nuôi công nghiệp gắn với chế
biến sản phẩm;tăng tỷ trọng ngành chăm nuôi trong nông ngiệp .
Phát
huy lợi thế về thuỷ sản, tạo thành một nền kinh tế mũi nhọn, vươn lên hàng đầu
trong khu vực. Phát triển mạnh việc nuôi trồng thuỷ sản nước ngọt,nước lợ và
nước mặn, nhất là nuôi tôm theo phương pháp tiến bộ, hiệu quả và bền vũng môi
trường.Tăng cường năng lực và nâng cao hiệu quả khai thác hải sản xa bờ; chuyển
đổi cơ cấu nghề nghiệp, ổn đinh khai thác gần bờ, nâng cao năng lực bảo quản,
chế biến sản phẩm đáp ứng nhu cầu sản phẩm quốc tế và trong nước. Mở rộng và nâng
cấp cơ sở hạ tầng, dịch vụ nghề cá. Giữ gìn môi trường biển và sông, nước, bảo
đảm cho việc tái tạo và phát triển nguồn lợi thủy sản .
Bảo vệ
và phát triển tài nguyên rừng, nâng độ che phủ của rừng lên 43%. Hoàn thành
việc giao đất, giao rừng ổn định và lâu dài theo hướng xã hội hoá lâm nghiệp,
có chính sách bảo đảm cho người làm rừng sống được bằng nghề rừng. Kết hợp nông
nghiệp với lâm nghiệp và có chính sách hộ trợ để định canh, định cư ổn định và
cải thiện đời sống nhân dân miền núi. Ngăn chặn nạn đốt phá rừng. Đẩy mạnh
trồng rừng kinh tế , tạo nguồn gỗ trụ mỏ. Nguyên liệu cho công nghiệp luyện
giấy, công nghiệp chế biến gỗ và làm hàng mỹ nghệ xuất khẩu nâng cao giá trị
sản phẩm rừng.
(3)-Tăng
cường tiềm lực khoa học và công nghệ trong cong nghịêp,nhất là công nghệ sinh
học kết hợp với cong nghệ thông tin. Chú trọng tạo và sử dụng giống cây, con có
năng suất, chất lượng và giá trị cao. Đưa nhanh công nghệ mới vào sản xuất,thu
hoạch, bảo quản, chế biến, vận chuyển và tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp. Ứng dụng
công nghệ sạch trong nuôi trồng và chế biến rau quả, thực phẩm. Hạn chế sử dụng
hoá chất độc hại trong nông nghiệp. Xây dựng một số khu công nghiệp công nghệ
cao. Tăng cường đội ngũ, nâng cao năng lực và phát huy tác dụng của cán bộ
khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư.
(4)-Tiếp
tục phát triển và hoàn thiện về cơ bản hệ thống thuỷ lợi ngăn mặn, giữ ngọt,
kiểm soát lũ, bảo đảm tưới tiêu an toàn, chủ động cho sản xuất nông nghiệp (kể
cả cây công nghiệp, nuôi, trồng thuỷ sản) và đời sống nôngdân. Đối với các khu
vực thường bị bão lũ, cùng với các giải pháp hạn chế tác hại thiên tai, phải
điều chỉnh quy hoạch sản xuất và dân cư thích nghi với điều kiện thiên nhiên,
nâng cao năng lực dự báo thời tiết và khả năng chủ động phòng chống thiên tai,
hạn chế thiệt hại.
(5)-Phát
triển mạnh công nghiệp và dịch vụ ở nông thôn. Hình thành các khu vực tập trung
công nghiệp, các điểm công nghiệp ở nông thôn, các làng nghề gắn với thị trường
trong nước và xuất khẩu. Chuyển một phần doanh nghiệp gia công ( may mặc, da
giầy...) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn. Có chính sách ưu đãi để
thu hút đầu tư của mọi thành phần kinh tế vào phát triển công nghiệp và dịch vụ
ở nông thôn.
Trên cơ
sở chuyển một bộ phận lao động nông nghiệp sang các ngành, nghề khác, từng bước tăng quỹ đất canh tác cho mỗi lao
động nông nghiệp, mở rộng quy mô sản xuất , tăng việc làm và thu nhập cho dân
cư nông thôn.
Giá trị
gia tăng nông nghiệp ( kể cả thuỷ sản, lâm nghiêp) tăng bình quân hàng năm
4,0-4,5%. Đến năm 2010, tổng sản lượng lương thực có hạt đạt khoảng 40tr.tấn.
Tỷ trọng nông nghiệp trong GDP khoảng 16-17%; tỷ trọng nghành chăn nuôi trong
giá sản xuất nông nghiệp tăng lên khoảng 25%. Thuỷ sản đạt sản lượng 3.0-3.5%
tr tấn (trong đó khoảng 1/3 là sản phẩm nuôi trồng). Bảo vệ 10 tr.ha rừng tự
nhiên, hoàn thành chương trình trồng 5 tr.ha rừng . Kim ngạch xuất khẩu nông
lâm thuỷ sản đạt 9-10 tỷ USD, trong đó thuỷ sản khoảng 3/5 tỷ USD.
Nội
dung công nghiệp hoá , hiện đại hoá nông
thôn được thể hiện trong những nội dung cụ thể sau:
1.Hiện
đại hoá nông nghiệp nông thôn
2.Phát
triển công nghiệp chế biến nông, lâm sản
3.Phát
triển TTCN trong nông thôn
4. Phát
triển dịch vụ nông nghiệp nông thôn
5. Cơ
điện khí hoá nông nghiệp nông thôn
6. Phát
triển công nghiệp ở nông thôn
1.Nội
dung hiện đại hoá nông nghiệp hoá nông thôn
Đây
thực chất là quá trình đầu tư phát triển khoa học công nghệ mới vào sản xuất
nông nghiệp và nông thôn góp phần tăng trưởng sản xuất nông nghiệp.
1.1-Công nghệ sinh học :
Có vị trí quan trọng trong lĩnh vực sản xuất
nông nghiệp , áp dụng công nghệ sinh học hợp lý giúp chúng ta sản xuất ra các
nông sản phẩm có năng suất và chất lượng cao ,giúp ta tạo ra các giống cây
trồng vật nuôi, các loại thuốc trừ sâu trừ cỏ, phòng trừ côn trùng... . Công nghệ sinh học đã đóng góp phần đáng kể
vào thành tựu của nông nghiệp nước ta đồng thời tạo điều kiện cho đội ngũ cán
bộ khoa học kỹ thuật tiếp cận với công nghệ hiện đại.
Trong
những năm tới đây, chúng ta đã đề ra các mục tiêu:
-Đưa
nhanh vào sản xuất những tiến bộ mới về công nghệ sinh học nhằm tạo bước đột
phá mới về năng suất, chất lượng cây trồng, vật nuôi, từng bước xây dựng nền
công nghiệp sinh học hiện đại.
-Hoàn
thiện hệ thống nghiên cứu thực nghiệm, triển khai và phổ cập rộng rãi các thao
tác công nghệ sinh học ứng dụng vào sản xuất đại trà.
Để thực
hiện các mục tiêu đó , chúng ta cần:
-Nghiên
cứu về giống và công nghệ sản xuất trồng trọt, chăn nuôi:
+Tuyển
chọn giống tốt trong nước, nghiên cứu cải tạo để có đặc tính di truyền đồng
thời thiết lập những giống cây trồng vật nuôi của thế giới để chọn ra giống phù
hợp.
+Nghiên cứu đổi mới công nghệ sản xuất
trồng trọt , chăn nuôi phù hợp với vùng sinh thái,ứng dụng rộng rãi phân hữu
cơ, chế phẩm vi sinh... ứng dụng công nghệ vi sinh:
+Sản phẩm phân bón vi sinh.
+Sản xuất hoá phẩm sinh học bảo vệ thực
vật, thuốc trừ sâu không độc với người và gia súc.
+Nghiên cứu các biện pháp thú y trừ dịch hại, ít dùng hoá chất độc.
+áp dụng công nghệ vi sinh để bảo quản
nông, lâm sản.
1.2 - Công nghệ tự động hoá trong nông nghiệp:
Đây là biện pháp tích cực để nâng cao
năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm hạ giá thành, ở nước ta, mức
tự động hoá trong nông nghịêp chiếm khoảng 0,3%, riêng khâu chế biến nông sản
đạt 4,7%.
Hướng phát triển đề ra cho những năm tới
trong lĩnh vực này là:
+Tự động hoá trong phương thức quản lý và điều
hành xã hội
+ Tự
động hoá trong nông sản để duy trì chất lượng sản phẩm
+Tự động hoá trong các
dây chuyền chế biến nông sản
+Tự động hoá các khâu: cân, đo... đảm bảo
chính xác,khách quan trong việc quyết định giá cả sản phẩm.
+ Tự động hoá trong chăn nuôi thú y.
+ Tự động hoá trong tưới tiêu nước và các
công trình thuỷ lợi.
+ Tự động hoá trong các phòng nghiên cứu
khoa học, các phòng kiểm tra chất lượng sản phẩm và hàng hoá.
1.3-Công nghệ vật liệu
trong xây dựng:
Công nghệ vật liệu đã được ứng dụng trong sản
xuất của nhiều ngành trong nông nghiệp như chế biến nông sản,chế tạo máy móc
nông nghiệp... góp phần nâng cao chất lượng sản phẩm. Do vai trò đó chúng ta cần:
+ứng dụng các vật liệu tiêu biểu làm nguyên liệu chế tạo
các công cụ, máy móc thiết bị và phương tiện sinh hoạt trong nông nghiệp.
+Nghiên cứu ứng dụng các loại vật liệu phục vụ trong khâu
chế biến nông lâm sản, chế thuốc thú y, chế thuốc bảo vệ thực vật,thức ăn gia
súc...
+Trong chăn nuôi công nghiệp:máng thức ăn,hệ thống thoát
nước,...;trong thuỷ lợi :sử dụng các v ật liệu như combopsit làm mương máng...
vải nhựa kỹ thuật zeolectile lót đáy mương chống thấm.
1.4-Hiện đại hoá thông
tin trong nông nghiệp:
Nước ta
là một nước đi lên từ nông nghiêp, thông tin hoá là mộtnội dung rất quan trọng
của công nghiệp hoấ và hiện đại hoá nông thôn. Hướng phát triển trong những năm
tới .
+Tin
học hoá các hoạt thiết kế, các hoạt động quản lý trong lĩnh vực sản xuất và
dịch vụ.
+Hoàn
chỉnh xây dựng cơ sở hạ tầng,hệ thống mạng lưới thông tin quản lý vĩ mô.
+Phát
triển phần mềm, xây dựng cơ sở dữ liệu phục vụ chỉ dạo quản lý toàn nghành:
2-Phát triển chế biến nông lâm sản.
2.1-Vai
trò và vị trí:
Đây là
một trong những nội dung quan trọng cần được ưu tiên trong quá trình công nghiệp
hoá và hiện đại hoá nông thôn. Nó là một bộ phận không thể thiếu và rất quan
trọng của một nền nông nghiệp sản xuất hàng hoá. Vai trò quan trọng của nó được
thể hiện:
+Làm
tăng giá trị và sức cạnh tranh của nông sản tren thị trường tạo điều kiện phát
huy ưu thế của nông nghiệp nhiệt đới. Nông lâm sản qua chế biến có điều kiện
lưu thông dễ dàng hơn.
+Tạo
điều kiện cho nông dân khai thác, sử dụng có hiệu quả đất đai. Từ đó tạo thêm
việc làm, tăng thu nhập cho người lao động ở nông thôn, kéo theo sự phát triển
cơ sở hạ tầng ở nông thôn, thu hút các ngành công nghiệp và dịch vụ khác. Nhờ
đó sẽ hình thành các tụ điẻm công nghiệp dịch vụ ở nông thôn gắn với nông
nghiệp.
+Góp
phần tăng tích luỹ nhà nước, tăng kim ngạch xuất khẩu.
2.2-Kết quả đạt được:
+Giá trị tổng sản lượng công nghiệp chế biến liên tục
tăng bình quân 12-14%/năm và chiếm tỉ trọng khá lớn trong công nghiệp (năm
1995:32%)
+Các nông sản chế biến tăng cả chất lượng và số lượng .So
với năm 1990 ,năm 1997 ; cà phê nhân 400.000 tấn gấp 4 lần ,xay sát gạo đạt 15
triệu tấn gấp 1,9 lần ;cao su mủ kkhô 170.000tấn gấp 3 lần, đường đạt 1tr.tấn
năm 2001... giá trị sản lượng công nghiệp chế biến so với giá trị nông nghiệp
tăng33,8% (1990) lên 42% (1998).Tỷ trọng trong công nghiệp chế biến GDP cả nước
12,4% (1990)lên 15,7%(1995)
+Kim nghạch xuất khẩu của nông lâm sản qua chế biến tăng
20%/năm.
Mặc dù vậy vẫn còn tồn tại một số vấn đề:
+Toàn bộ hệ thống cây trồng của nước ta đều có năng xuất,
chất lượng rất thấp so với thế giới nên dùng chế biến hay xuất khẩu thô đều có
cạnh tranh.
+Tỷ trọng công nghiệp chế biến nhiều loại nông lâm sản
còn thấp so với nguyên liệu có như: chè 55%, rau quả 5%, thịt 1%. Tỷ lệ tổn
thất trong khâu thu hoạch và sau thu hoạch lớn: lương thực 8-10%, rau quả7-8%.
+Hiệu qủa kinh tế nhiều nhà máy chế bíên chưa cao.
2.3-Mục tiêu hiện nay đề ra của chúng ta là :
Đảm bảo cơ chế bảo
quản nông sản, giải quyết cơ bản việc làm khô nông sản bằng các biện pháp công
nghiệp. Từng bước hiện đại hoá hệ thống thiết bi, công nghệ,thực hiện mục đích
kim ngạch xuất khẩu nông lâm sản đạt 13tỷ USD(2020).
Phát triển công nghiệp chế biến được biểu hiện một số nội
dung :
+Bảo quản và chế biến lương thực
+Chế biến mía,đường,cafe, cao su,chè...
+Chế
biến các loại đồ uống
+Chế
biến thịt sữavà thức ăn chăn nuôi
+Chế biến rau quả
+ Chế biến hạt điều và dầu thực vật
+ Chế
biến gỗ và lâm sản
+ Chế
biếnvà sản xuất muối
+ Chế biến dâu,tơ tằm, bông
3-TTCN
ở nông thôn:
Đây là
công việc có ý nghĩa cực kỳ quan trọng, trước hết là tạo ta cục diện mới về
kinh tế nông thôn, xoá bỏ nền kinh tế thuần nông, phân bố lại lao động ngay
trên địa bàn nông thôn... tăng nhanh thu nhập cho lao động nông thôn.
3.1-Kết quả đạt được:
- Tốc độ phát triển TTCN ở nông thôn thời gian qua tương
nhanh. Từ khi có luật đất đai, tốc độ tăng bình quân 10-11%/năm. Trong đó vùng
Đông Nam Bộ tăng 18,2%/năm, vùng đồng bằng Sông Hồng là 3,7%/năm.
- Các nghề và làng nghề truyền thống bước đầu được phục
hồi, nghề và làng nghề mới đang được phát triển. Hiẹn nay cả nước có khoảng
1000 làng nghề trong đó 2/3 là làng nghề truyền thống. Những tỉnh có nhiều làng
nghề như: Hà Tây, Bắc Ninh, Nam Định.... mỗi tỉnh có đến 60-80 làng nghề.
-Bình quân một cơ sở làng nghề tạo việc làm ổn định cho
27 lao động, mỗi hộ ngành nghề có 4-6 lao động. Ngoài nghề lao động sử thường
xuyên, các hộ các cơ sở ngành nghề còn thu hút thêm lao động nhàn rỗi ở nông
thôn 2-5/hộ và 8-10 người/cơ sở.
-Thu nhập của lao động chuyênTTCN ở nông thôn cao hơn lao
động nông nghiệp thuần khoảng 4-6 lần.
3.2-Hạn
chế và tồn tại
-Quy mô
nhỏ, kinh tế hộ là phổ biến, hiện nay cả nước có khoảng 1,35tr.hộ và cơ sở trên
ngành nghề. Trong đó cơ sở chuyềnchỉ chiếm khoảng 3%. Bình quân lao động thường
xuyên của cơ sở TTCN là 20 người, mỗi hộ là 4-6 người.
-Trình
độ văn hoá và chuyên môn kỹ thuật của người lao động làm TTCN còn thấp. Cơ sở
vật chất kỹ thuật nghèo nàn. Có tới 55% lao động trong các cơ sở chuyên chưa
qua trường lớp đào tạo,36% không co chuyên môn kỹ thuật, chỉ có 20% cơ sở có
nhà xưởng kiên cố. Máy móc thiết bị đơn giản, phần lớn không đảm bảo yêu cầu kỹ
thuật an toàn và vệ sinh moi trường.
-Chất
thải TTCN không được sử lý gây ô nhiễm môi trường nông thôn nhất là ở các làng
nghề.Tình trạng khai thác bừa bãi tài nguyên thiên nhiên phục vụ TTCN đang gây
hậu quả xấu cho môi trường.
3.3-Mục tiêu và định hướng
Góp
phần xây dựng nông thôn có nền kinh tế tăng trưởng và bền vững, bảo vệ môi
trường; có cơ sở vật chất, cơ cấu kinh tế hợp lý, nhăm giải quyết việc làm nâng
cao thu nhập, đưa nông thôn tiến lên văn minh hiện đại... Mở rộng thị trường
tiêu thụ trong và ngoài nước.
-Chế
biến nông sản( quy mô nhỏ) :Hiện nayTTCN còn chiếm tỷ lệ cao trong lĩnh vực sơ
chế, chế biến nông lâm sản, xay sát gạovà chế biến lương thực:70%; sơ chế
cafe80%, chè 45%,mía dường 55%... và thu hút khoảng 1,6triệu lao đông.Hướng
phát triẻn trong thời gian tới:
+Những
vùng địa bàn phức tạp, nguyên liệu phân tán, không có điều kiện xây dựng nhà
máy chế biến công nghiệp...
+Sơ
chế, chế biến lương thực, thực phẩm, nông sản phục vụ tiêu dùng.
Cần chú
ý nâng cao năng suất, chất lượng sản phẩm giải quyết vấn đề chất thải và chú ý
khâu bao bì mẫu mẫ.
Sản
xuất hàng tiêu dùng và thủ công mỹ nghệ.
Ngành
này rất phong phú cùng các nhóm nghề;nghề đan lát, nghề dệt,nghề thêu...Đây hầu
hết là những nghề truyền thống và tập trung thành làng nghề cần phát triển theo
2 hướng sau:
+Sản
xuất các mặt hàng thông dụngthay thế gỗ chạm tay bằng các hoa văn đúc nhựa với
giá hạ cung cấp cho những người thu thấp, thị trường chủ yếu là nông thôn.
+Sản
xuất những mặt hàng có sắc thái riêng, chất lượng cao để xuất khẩu, điều này
đòi hỏi thợ phải có tay nghề cao, kết hợp công nghệ cỏ truyền và công nghệ tiên
tiến với ứng dụng máy móc trong một số khâu...
- Khai
thác và sản xuất vật liệu xây dựng :Trong những năm qua tốc độ tăng trưởng bình
quân ngành là 20,8% năm.Trong thời gian đó sẽ thi hành một số việc sau :
+Quy
hoạch các địa điêm khai thác đất,đá ,sỏi...các khu sản xuất gạch ngói,hạn chế
ảnh hưởng đến môi trường và đất canh tác.
+Cải
tiến lò thủ công tiến tới xoá bỏ lò thủ công.Sử dụng cơ khí trong các khâu
luyện đất ,vận chuyển...
-Cơ khí
hoá nông thôn :Cơ khí hoá nông thôn gắn bó mật thiết với quá trình cơ giới hoá
nông thôn,nhiệm vụ của cơ giới hoá nông thôn là :
+Chế tạo công cụ máy móc cho sản xuất và sinh
hoạt ở nông thôn.
+Hợp đồng gia công ,và vệ tinh cho các nhà máy
và khu công nghiệp .
4.Phát
triển hệ thống dịch vụ ở nông thôn theo hướng công nghiệp hoá hiện đại hoá
Đây
thực chất là nội dung xoá đói giảm n nghèo tăng thu nhập cho người lao động;góp
phần chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông thôn và phân bố lại lao động trong khu vực
nông thôn; là một trong những nhân tố thúc đẩy sản xuất nông nghiệp ,công
nghiệp vàTTCN ở nông thôn phát triển;cải tạo đời sông vật chất và văn hoá các
cộng đồng dân cư nông thôn.
-Kết quả đạt được :
+ Kinh tế dịch vụ đang được tăng cường nhanh về tốc độ
phát triển,tạo ra thành quả bước đầu về kết quả của sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế nông thôn Hệ thống dịch vụ ở khu
vực nông thôn những nam qua với tốc độ tăng trưởng khoản 10% năm. Tỷ trọng cơ
cấu nông thôn từ 10,4%(1990) lên 13,6%(1995)và trên 15%(1997).
+ Hệ thống
hoạt động dịch vụ ,nhất là hệ thống dịch vụ ở nông thôn phát triển rất mạnh,góp
phần phát triển kinh tế xã hội ở nông thôn nước ta.Do nhu cầu thực tế nhiều
loại dịch vụ ở nông thôn phát triển rất mạnh như :mạng lưới dịch vụ thương mại
,dịch vụ tài chích ở nông thôn,các dịch vụ kỹ thuật,điện thoại ,văn hoá ,du
lịch,giải trí ở nông thôn đã phát triển bước đầu .
Tuy vậy vẫn tồn tại một số vấn đề như :
+ Hệ thống dịch vụ nông thôn còn nhiều bất cập đối với
sản xuất nông nghiệp hàng hoá.
+ Hoạt động dịch vụ ở nông thôn phần nhiều mang tính tự
phát,thiếu quy hoạt và không toàn diện.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật hoạt động dịch vụ còn yếu kém.
+ Quản lý nhà nước về mặt dịch vụ ở nông thôn còn xem nhẹ
buông lỏng,thiếu các văn bản pháp quy chỉ đạo.
- Mục
tiêu và phương hướng giải quyết :
+ Tốc
độ tăng trưởng bình quân 1998-2020 :12%-13%/năm,đưa tỷ trọng GDPdịch vụ trong
GDP kinh tế nông thôn từ 1975 lên 35% năm 2020 .
+ Giải
quyết 300.000 lao động /năm có việc làm, tăng tỷ lệ thu nhập từ các ngành phi
nông nghiệp từ 355 hiện nay lên 75%năm 2020
Củng cố
và phát triển các ngành dịch vụ đã có, tiếp tục mở mang các ngành dịch vụ mới.
Trước hết, tập trung phát triển mạnh các ngành dịch vụ có nhiều lợi thế, có thị
trường tiêu thụ, để tạo việc làm cho lao động nông thôn, tăng nhanh thu nhập và
nâng cao đời sống dân cư nông thôn như:
+ Dịch
vụ thương mại.
+ Dịch
vụ tài chính
+ Dịch
vụ kỹ thuật cây trồng, vật nuôi
+ Dịch
vụ nước
+ Dịch vụ cơ khí nông thôn
+ Dịch vụ vận tải và phát triển giao thông
nông thôn
+ Dịch vụ cung ứng điện năng
+ Dịch vụ thông tin liên lạc
+ Dịch vụ tư vấn kinh doanh và tư vấn pháp
luật
+ Dịch vụ chuyển giao công nghệ và đào tạo
+ Dịch vụ
y tế
+ Dịch
vụ du lịch,văn hoá, giải trí
5-Cơ
khí hoávà điện khí hoá nông thôn
5.1- Kết quả đạt được
- Cơ khí hoá nông nghiệp đã thực sự thích ứng yêu cầu của
sản xuất và đời sống. Mức độ cơ giới hóa khâu làm đất tăng từ 22%(1986) lên
34,1%(1996), đập lúa từ 30% lên 70%.Trong chăn nuôi, cơ khí cũng được sử dụng
trong khâu cấp nước, cấp thức ăn, ấp trứng...
- Cơ khí hoá đã được phục vụ mọi thành phần kinh tế với
quy mô khác nhau. Với số lượng máy kéo, máy nông nghiệp ngày càng tăng,cơ khí
có thể phục vụ được mọi thành phần kinh tế với quy mô khác nhau. Số máy
kéo do nông dân quản lý chiếm 97%,đọng
cơ điêzen 98%
- Điện
khí hoá nông thôn đã được phát triển nhanh ,thiết thực phục vụ nông nghiệp và
nông thôn. Đến nay điện lưới quốc gia đã đưa đến 90,6% số huyện,63,2% số xã,
50,7% số hộ.
- Cơ
khí phát triển đã thúc đẩy cơ sở hạ tầng nông thôn phát triển. Đến nay, cả nước
đã nối thông đường giao thông tới 92,8% số xã. Về tưới tiêu bằng côg trình thuỷ
lợi đạt 53% diện tích canh tác được tưới, 25% được tiêu 305 dân số dược cấp
nước sinh hoạt.
- Ngành
cơ khí chế tạo ngày càng phát triển thông qua phục vụ nông nghiẹp và nông thôn.
5.2-Một số vấn đề còn tồn tại
- Mức độ điện khí hoá nông nghiêp còn thấp tỷ lệ diện
tích đất làm bằng máy ở nhiều vùng còn thấp (đồng bằng Sông Hồng 21%...). Tỷ lệ
cơ giới hoá nganh chăn nuôi rất thấp, cậm phát triển, nhiều khâu chưa được cơ
giới hoá. Các công trình thuỷ lợi mới đảm bảo tưới chủ động bằng cơ giới trên
50% diện tích. Việc sử dụng điện phục vụ sản xuất nông nghiệp còn thấp chất
lượng điện nhiều nơi không bảo đảm tổn thất điện lớn.
- Máy móc quá nhiều chủng loại, gây khó khăn phức tap cho
công tác quản lý, cung cấp phụ tùng. Máy kéo lớn nhập toàn bộ từ nước ngoài,
phần lớn đã qua sử dụng trên 10 năm. Máy nông nghiệp đa phần sản xuất trong
nước nhưng chất lượng chưa tốt giá bán chưa phù hợp...
5.3- Mục tiêu và hướng phát triển
-Mức độ cơ giới hóa tổng hợp với sản xuất nông nghiệp là
70-80%
-Tổng động lực cơ điện phục vụ cho sản xuất nông lâm
nghiệp vào khoảng trên 20 triệu mã lực, mức tăng bình quân 1,5-2 mã lực/ha gấp
3-4 lần hiẹn nay.
- Trong
thời gian sắp tới hướng phát triển tập trung vào:
Cơ giới
hoá trồng trọt: Làm đất và cải tạo đồng ruọng gieo trồng, chăm sóc, cơ giới hoá
khâu thu hoạch, phơi sấy và bảo quản....
Cơ giới hoá nước tưới
Cơ giới hoá chăn nuôi, cơ giới hoá chuồng
trại chăn nuôi, cơ giới hoá đồng cỏ
Cơ giới hoá lâm nghiệp: sản xuất giống và
cây con, trồng, chăm sóc và bảo vệ rừng; cơ giới hoá khâu khai thác.
Điện khí hoá nông nghiệp và nông thôn.
6. Phát triển công nghiệp nông thôn-khâu mẫu
chốt trong việc phát triển nhanh và bền vững nông nghiệp nông thôn .
Có thể khẳng định rằng trong một
"hùm " năm nghi quyết của hội nghị lần thứ năm của ban chấp hành
trung ương Đảng(khoá IX) Nghi quyết "Về đẩy nhanh công nghiệp hoá hiện đại
hoá nông nghiệp nông thôn "có vị trí đặc biệt quan trọng trong việc phát
triển nhanh và bền vững của đất nước
thời kỳ 2001-2010. Đẩy mạnh phát triển công nghiệp ở khu vực nông thôn hiện nay
vừa là khâu mẫu chốt,vừa là một vấn đề đang bức xúc nhất. Do đó, việc triển
khai thực hiện thắng lợi khâu này cũng như toàn bộ nghị quyết ở các ngành, các
cấp sẽ được đất nước ta bước vào một giai đoạn mới.
6.1 Những vấn đề không
mới nhưng bức xúc.
Trước hết,cần khẳng định rằng.Chiến lược
ổn định và phát triển kinh tế xã hội đến năm 2000 được đại hội đảng lần thứ VII
thông qua đã đề cập đến nhiều chủ trương về phát triển kinh tế nông thôn,trong
đó có 3 nội dung cơ bản nhất là :
-" Nông -lâm - ngư nghiệp phát triển theo hướng kinh tế hàng
hoá,gắn với công nghiệp chế biến...Hình thành một số vùng chuyên canh cây công
nghiệp chế biến...Kết hợp nông nghiệp với ngư nghiệp, gắn với công nghiệp khai
thác và chế biến...".
- "Coi trọng công nghiệp sau thu
hoạch.Phát triển rộng khắp công nghiệp chế biến nông ,lâm ,thuỷ sản,kết hợp
nhiều hình thức công nghệ,hợp tác liên doanh với nước ngoài để hiện đại hoá
công nghệ...".
- Nhất là, kế hoạch đã nhấn một cách hết
sức rõ ràng chủ trương:" Phát triển mạnh các ngành nghề đặc biệt là công
nghiệp và dịch vụ ở nông thôn.."với mục tiêu "giải quyết việc làm và thay đổi cơ cấu
lao động,giảm bớt số lao động nông nghiệp.Hình thành các điểm công nghiệp và
văn hoá ở nông thôn ".
Tuy nhiên sau 10 năm thực hiện chiến lược
này,mặc dù nên kinh tế nói chung có những bước tiến rất xa,nhưng việc thực hiện
mục tiêu nói trên lại hết sức khiêm tốn.Nhận định này dựa trên ba căn cứ sau
đây:
Thứ
nhất: về tổng thể nền kinh tế,nếu so với năm 1990,tổng sản phẩm trong nước tới
năm 2000 đã tăng 2,07 lần, hay đạt nhịp độ bình quân là 7,56% năm: trong đó
điều rất đáng mừng là,do đạt tỷ lệ tăng trưởng rất cao,tỷ trọng của hai khu vực
công nghiệp và dịch vụ trong cùng kỳ tăng từ 61,26% lên75,31% khu vực kinh tế
nông, lâm nghiệp và thuỷ sản trước đây chiếm khoảng 38,74% nay giảm xuống chỉ
còn 24,29%. Song, công nghiệp và dịch vụ vẫn chưa được phát triển mạnh ở khu
vực nông thôn, mà mới chỉ tập trung phát triển chủ yếu ở khu vực thành thị.
Thứ hai: nếu so sánh các kết quả điều hai cuộc
điều tra ở nông thôn và nông nghiệp do Tổng cục thống kê tiến hành năm 1994 và
năm 2000 có thể thấy,trong khi tỷ trọng của các hộ nông,lâm,ngư nghiệp và thuỷ
sản giảm từ 81,65% xuống 79,84% và tỷ
trọng của các hộ công nghiệp và xây dựng tăng từ1,61% lên 4,23%,thì tỷ trọng
của các ngành dịch vụ lại giảm từ 16,74% xuống chỉ còn 14,32%,Tính theo số
tuyết đối,trong khi hộ công nghiệp(kê cả hộ xây dựng) trong cùng kỳ tăng được
576 nghìn hộ,số hộ nông lâm,thuỷ sản tăng tới720 nghìn hộ,thì số hộ dịch vụ
chẳng những không tăng mà giảm hơn 8000 hộ.Điều đó cho thấy ,do khả năng tạo ra
việc làm của hai khu vực công nghiệp và dịch vụ còn hạn chế nên đa số những hộ
nông dân trong những sáu năm gần đây vẫn phải tìm kiếm việc làm nông nghiệp
,lâm nghiệp và thủy sản.
Về thu nhập,kết quả hai cuộc tổng điều tra
trên cho thấy tình hình đáng buồn hơn nhiều.Cụ thể là,trong cùng kỳ,thu nhập từ
sản xuất nông lâm ,thuỷ sản tăng từ 57,30% lên 69,04%,tức là thu nhập từ sản
xuất nông,lâm nghiệp và thuỷ sản đã giảm từ 42,70% xuống còn 40,96%.thu nhập từ
hai khu vực công nghiệp và dịch vụ còn hết sức khiêm tốn : tăng từ 4,70% lên
8,28% (công nghiệp) ,nhưng thu nhập từ dịch vụ lại giảm từ 11,90% xuống
10,87%.Như vậy ,trong khi công nghiệp và dịch vụ làm cho thu nhập của cư dân
khu vực đô thị tăng rất nhanh,thì nguồn thu nhập chủ yếu của cư dân nông thôn
vẫn chủ yếu là từ nông nghiệp ,lâm nghiệp và thuỷ sản,hay nói công nghiệp và dịch
vụ hiện vẫn còn chiếm 3/4 dân số này của
cả nước ta .
Do tình hình việc làm và thu nhập như
vậy,khoảng cách giàu nghèo giữa hai khu vực nông thôn và thành thị ngày càng
rộng. Theo kết quả điều tra về mức sống dân cư của tổng cục thống kê,thì khoảng
cách này năm1996 là2,71 lần,năm1999 tăng lên3,70 lần,năm 2001 tăng lên 4,45
lần.Rõ ràng đây là khoảng cách khá lớn,bởi trình độ phát triển của nước ta còn
qua thấp .
Thứ ba:do thu nhập của khu vực nông thôn còn
quá thấp,lại tăng rất chậm,dẫn đến một hậu quả tất yếu rất đáng lo ngại là làm
sức mua của thị trường này rất yếu và nền kinh tế thiếu thị trường để phát
triển .
Căn cứ
vào kết quả điều tra nói trên,có thể tính được rằng"rổ hàng hoá và dịch vụ
tiêu dùng xã hội" ,thị phần của khu vực nông thôn đã "co lại "
từ 59,32% (năm1996) xuống chỉ còn 46,06%(năm2001).Đây chích là nguyên nhân cốt
lõi khiến cho nhịp độ tăng trưởng của tổng mức bán lẻ hàng hoá và dịch vụ xã
hội của cả nứơc trong ba năm liên tục đều dưới 10% ,rất thấp so với những năm
trước đó.Điều đó có nghĩa nếu tất cả những điều nói trên không được khắc
phục,thì chúng ta rất khó có thể,nếu như không nói là không thể thực hiện được
mục tiêu tổng sản phẩm trong nước tăng gấp đôi trong vòng 10 năm,càng không thể
nói đến sự phát triển bền vững.Từ đó có thể khẳng định rằng,đẩy mạnh phát triển
công nghiệp ở khu vực nông thôn(công nghiệp phát triển nhanh sẽ kéo theo dịch
vụ phát triển nhanh) là một ván đề không
mới nhưng do việc thực hiên còn rất xa
mong muốn nên đã và đang trở
thành một vấn đề bức xúc,là khâu mẫu chốt trong việc phát triển nền kinh tế
nhanh và bền vững.
6.2 Những giải pháp
không thể thiếu được trong việc phát triển công nghiệp nông thôn .
Ngày 4-6-2002,Thủ Tướng Chính Phủ ra Quyết
định số68/2002/QĐ/TTg về " Chương trình hành động nhằm đẩy mạnh công
nghiệp hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn thời kỳ 2001 –2010 ".
Nhìn một cách tổng quát trương trình này gồm một số nội dung chủ yếu sau đây :
Một là: điều chỉnh các quy hoạch trong đó
trọng tâm là các vùng sản xuất tập trung những loại nông,lâm,thuy sản,hàng hoá
chủ yếu,tức là thực hiện hoá chủ trương cơ cấu kinh tế nông nghiệp theo hướng
hình thành một nên nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và
điều sinh thái của từng vùng .Xoay quanh nội dung cốt lõi là việc đưa nhanh
tiến bộ khoa học và công nghệ vào các ngành trồng trọt ,chăn nuôi ,lâm sản
,thuỷ sản,giống cây trồng vật nuôi sau thu hoạch,nhất là bảo quản chế biến nông
lâm thuỷ sản ...phát triển thuỷ sản và tài nguyên nước nhằm nâng cao năng suất
lao động,nâng cao chất lượng và sức cạnh tranh của sản phẩm.
Hai là:phát triển điện và năng lượng tái tạo ở
nông thôn,phát triển mạnh công nghiệp chế biến gắn với vùng nguyên liệu tại chỗ
hoặc cần nhiều cho lao động (sản xuất vật liêu xây dựng,khai thác mỏ,chế biến
nông ,lâm ,thuỷ sản,dệt may,da giầy,cơ khí lắp giáp và sửa chữa...);phát triển
ngành nghề nông thôn;bố chí ,xắp xếp nâng cao năng lực công nghiệp cơ khí hoá
chất phục vụ cho nông nghiệp...Nghĩa là,cùng với phát triển hàng hóa với quy mô
lớn,công nghiệp sẽ được đồng thời phát triển mạnh ở khu vực này,tạo thế đi lên
vững chắc bằng cả "hai chân " ;công nghiệp và nông nghiệp chứ không
chỉ đơn thuần là nông nghiệp như hiện nay.
Ba là: để thực hiện được các phương hướng phát
triển trên. Chương trình chủ trương phát triển một loạt các yếu tố khác với vai
trò tạo lập kết cấu hạ tầng kinh tế như: phát triển giao thông –dịch vụ ,hệ
thống viễn thông cấp xã và hệ thống thông tin:xây dựng hệ thống cho vay và
trung tâm thương mại dịch vụ ở khu vực nông thôn:tức là tạo ra thế "chân
kiềng",nông nghiệp,công nghiệp và dịch vụ để kinh tế nông thôn phát triển
một cách vững chắc.
Bốn
là:dựa trên những tiền đề kinh tế đó bộ mặt nông thôn sẽ được đổi mới nhờ
chương trình phát triển các thị tứ,thị trấn và khu dân cư nông thôn; đẩy mạnh
phong trào toàn dân đoàn kết ,xây dựng nết sống văn hoá,xây dựng trung tâm văn
hoá làng xã,y tế cộng đồng;đào tạo nguồn nhân lực và phổ cập giáo dục ...
Với
những mục tiêu nêu trên nội dung mà chương trình hướng tới không có gì khác là
tạo thêm nhiều việc làm ,tăng thêm thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn, thu
hẹp khoảng cách giàu nghèo,tạo bộ mặt nông thôn trong thời kỳ công nghiệp hóa,
hiện đại hoá nông thôn .
Để thực hiện chương trình đó bám sát những nội
dung trên chương trình đã nêu ra hàng loạt các mục giải pháp,từ vấn đề đồn điền
,đổi thửa,sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh,liên kết sản
xuất,kinh doanh;nghiên cứu sửa đổi Luật đất đai,luật thuế,sử dụng đất nông
nghiệp,thuế thu nhập cho các doanh nghiệp phục vụ khu vực nông nghiệp và nông thôn;đến yêu tiên đầu tư cơ sở hạ
tầng cho khu vực nông nghiệp và nông thôn,nhất là thuỷ lợi,giao thông và hệ
thống điện;ưu tiên nguồn vốn đầu tư cho nghiên cứu và chuyển giao khoa học công
nghệ và phát triển thị trường nông thôn;đổi mới cơ chế quản lý khoa học,quản lý
khuyến nông;có chính sách đào tạo nguồn nhân lực và khuyến khích cán bộ phục vụ
nông nghiệp và nông thôn;khuyến khích các thành phần kinh tế tham gia kinh
doanh nông sản,...
Tuy rất
đa dạng và chắc chắn sẽ có tác động rất tích cực tới việc phát triển kinh tế ở
nông thôn,nhưng có thể khẳng định rằng các giải pháp đưa ra trong chương trình
vẫn chưa tạo ra một tiền đề quan trọng nhất để công nghiệp có thể phát triển
mạnh ở khu vực này,bởi vẫn còn thiếu một hệ thống các giải pháp nhằm phát triển
các khu các cụm công nghiệp nhỏ gắn liền với làng xã nông thôn .
Rõ ràng,sự chật chội của các làng xã,nhất là
các làng xã cổ,ở khu vực nông thôn nước ta không cho phép phát triển mạnh công
nghiệp.Chẳng hạn,"xã công nghiệp "Dương Liễu Hoài Đức Hà Tây với
2.550 hộ,11.500 người,trong đó có 90% số hộ làm ngành nghề,có giá trị sản lượng
nông nghiệp và tiểu thủ công nghiệp năm 2001 là 298 tỷ đồng,nhưng giếng nước
khoan sâu tới 70 mét vẫn không sử dụng được và 80% dân số ở đây mắc bệnh đường
ruột...cũng cho thấy rất rõ điều này.Hoặc ở một khía cạnh khác,thông tin từ xã
Đồng Quan Từ Sơn Bắc Ninh cho thấy,khi 12 hec ta đất khu công nghiệp sản xuất
đồ mỹ nghệ của xã vừa được quy hoạch,ngay lập tức có hàng trăm hộ đến đăng ký
thuê đất và nhiều nhu cầu thuê đất của dân vẫn còn rất nhiều .
Thực tế đó đã khẳng định,để có thể phát triển
mạnh công nghiệp ở khu vực nông
thôn,không thể không chú trọng thoả đáng đến việc quy hoạch phát triển công nghiệp ở khu vực này.Rõ ràng,chúng
ta không thể kỳ vọng vào sự phát triển mạnh ở đây, nếu các ngành các địa phương
không tạo ra chỗ cắm rùi cho nó.
Tiếp theo,cùng với việc phát triển quy hoạch ở
khu vực nông thôn,cần nghiên cứu ban hành một hệ thống các chính sách ưu đãi để
thu hút mọi thành phần kinh tế để phát triển công nghiệp và dịch vụ ở khu vực
nông thôn.Đây cũng là điều được khẳng định rất rõ ràng trong"chiến lược
phát triển kinh tế xã hội thời kỳ 2001-2010" của đảng .
Ngoài ra,thực tiễn thi hành luật doanh nghiệp
trong hơn ba năm qua cho thấy,tuy đã tạo ra một làn sóng mới để phát triển kinh
tế, nhưng bên cạnh đó cũng đặc ra vấn đề
cần đặc biệt quan tâm dưới góc độ triển khai nghị quyết này.Đó là,trong
tổng số trên 41.000 được thành lập với
tổng số vốn huy động được khoảng 60 nghìn tỷ đồng cho đến nay thì có khoảng 60%
tập trung ở hai thành phố lớn nhất là Hà Nội và
Thành Phố Hồ Chí Minh .Còn nếu kể thêm một vài địa phương khác như Hải
phòng,Đồng nai ,Bà rịa - Vũng tàu,Bình Dương ....,thì tỷ trọng này lên khoảng
70%; tức là,về cơ bản nông thôn vẫn là "vùng trắng " , nằm ngoài làn
sóng phát triển này.Mặt khác,kết quả điều tra về môi trường kinh doanh của
doanh nghiệp ngoài quốc doanh cho thấy,có tới 90% doanh nghiệp phải đi thuê đất
trong đó có những trường hợp phải thuê đất của cá nhân hay thuê đất của doanh
nghiệp nhà nước với giá thị trường,măc dù quy trình xin đất sử dụng đã được phê
duyệt.
Cuối cùng ,để công nghiệp và dịch vụ có thể
phát triển mạnh ở nông thôn,cần nghiên cứu để hình thành một hệ thống thông tin
về vấn đề này để phục vụ cho cơ quan nhà nước các cấp.Bởi đến nay,mọi nghiên
cứu về vấn đề này đều phải "đi
đường vòng ",dưới hình thức rút ra kết luận từ các số liệu liên quan .
Nói đến công nghiệp hoá ,hiên đại hoá nông
thôn,không thể không nói đến phát triển nông nghiệp trong lòng nông thôn .Bên
cạch việc chuyển một phần doanh nghiệp gia công (may măc ,da giầy ...) và chế biến nông sản ở thành phố về nông thôn
như chiến lược của Đảng đã khẳng định ,vấn đề cơ bản là phải tạo đủ điều kiện
để công nghiệp có thể phát triển nhanh ở khu vực còn rất nhiều khó khăn này
.Bởi chỉ có như vậy,mới đạt được mục
tiêu tạo nhiều việc làm ,tăng thêm thu nhập cho dân cư khu vực nông thôn . Và
cũng chỉ có như vậy ,nền kinh tế mới đủ động lực để phát triển và bộ mặt nông
thôn nước ta cũng mới có thể có một diện mạo mới. Đó cũng là việc thực hiện
đường lối công - nông - trí thức liên minh của Đảng mà các ngành các cấp không
thể đứng ngoài cuộc.
Chương III
THỰC TRẠNG VÀ CÁC GIẢI
PHÁP THÚC ĐẨY CNH-HĐH
Ở NÔNG THÔN VIỆT NAM
TRONG THỜI GIAN TỚI
I.Thực trạng công nghiêp hoá, hiện đại hoá nông
thôn Việt Nam
.
1.Thuận lợi và thành tựu đạt được .
1.1 Thuận lợi .
-Với nhiều loại đât,sự phân hóa khí hậu... tạo
điều kiện cho nước ta có thể phân bố nhiều loại cây con khác nhau để có thể tạo
ra một nền công nghiệp đa canh với cơ cấu sản phẩm đa dạng,mặt khác cũng tạo
điều kiện cho việc xây dựng và phát triển các ngành chuyên canh và vùng cây đăc
thù ...
-Xu thế chung của thế giới và khu vực là hoà
bìng,hợp tác và phát triển.Nước ta đạng hôi nhập nền kinh tế thế giới có điêu kiện thuận lợi để tranh thủ sự giúp
đỡ và học hỏi của các nước trong việc
lựa chọn con đường CNH-HĐH vừa có thể đi nhanh vừa có thể tránh được những vấp
váp mà các nước đi trước gặp phải ...
-Nhiều chính sách mới được ban hành và thử
nghiệm có kết quả.
-Nguồn lao động khá rồi rào,và nguồn dự trữ
lao động khá phong phú.Dân số trẻ, đây là nguồn lực rất nhạy bén với khoa học
và công nghệ tiên tiến,cộng với truyền thống lao động cần cù,chăm chỉ thì có
thể nói đây là một thuân lợi to lớn của nước ta .
1.2 Những thành tựu đạt
được :
-Sản xuất nông nghiệp và kinh tế nông
thôn liên tục phát triển với tốc độ khá cao :Từ năm 1989 đến nay,sản xuất nông
nghiệp có tốc độ tăng bình quân 4,5% năm .Ngoài ra các ngành sản xuất hàng hoá
như :chè,cà phê,cây ăn quả,mía đường...cũng phát triển khá. Chăm sóc ,bảo vệ
rừng,phủ xanh đất trống đồi trọc có tiến bộ,bước đầu chặn được tình trạng xa
xút về rừng, Kim ngạch xuất khẩu nông lâm ,thuỷ sản năm 2000 đạt 4,3 tỉ USD,cao
gấp 1,7 lần năm 1995. Hiện nay Việt Nam là nước xuất khẩu gạo đứng thứ hai thế
giới .
-Cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn
bước đầu đã có sự chuyển dịch đúng hướng,hiệu quả kinh tế đang được tăng lên
:Giá trí sản lượng chăn nuôi trong tổng giá trị sản lượng nghiệp từ 21,8%(1991)
lên 23,5% (1995) .Năm 2000 đạt 1,4 triệu tấn thịt lợi hơi gấp 1,5 lần năm
1995.Giá trị sản lượng cây phi lương thực từ 33,7% (1993) lên 36,22%(1995) và
trên 38% năm 1999 .Giá trị sản lượng chế biến so với giá trị sản lượng nông
nghiệp từ 33,6%(1990) lên trên 42%(1999) .Giá trị sản lượng một héc ta gieo
trồng bình quân mỗi năm tăng2%.
Mặt khác,công nghiệp chế biến bao gồm các hoạt
động tiểu thủ công nghiệp,sau thời gian suy giảm mất thị trường nay bắt đầu tìm
lại thị trường,đổi mới công nghệ khôi phục nghề cũ,tim kiếm nghề mới.Đến nay đã
suất hiên nhiều làng nghề,có nơi chiếm tới 60-70% thu nhập của làng như Hà
tây,Hải hưng...đã làm cho tốc độ nông thôn tăng 7,8%/ năm.Trong cơ cấu kinh tế
nông nghiệp ,cùng các cây công nghiệp tập trung theo hướng tập trung hàng
hoá,nhiều vùng cây ăn quả đã tăng lên đáng kể như vải thiều Lục Ngạn,vùng bởi
cam ở Hương Sơn,Hương Khê( Hà tĩnh),vung nho (Ninh thuận ).Các vùng cây ăn quả
mới được hình thành cùng với kinh tế vườn ở Nam bộ và hoạt động kinh tế VAC
trong các hộ nông dân đã hình thành nghề mới nhăm tăng thu nhập ,xoá đói giảm
nghèo,tạo thêm việc làm ,thúc đẩy kinh tế nông thôn,các vùng nông nghiệp sinh
thái một cách hiệu quả.Kinh tế VAC ở nước ta đã trở thành một hiện tượng
mới,vừa có hiệu quả kinh tế xã hội ,vừa bảo vệ môi trường ,tạo ra nguồn lực
sáng tạo mạnh mẽ.
Nhiều hình thức tổ chức nông nghiệp kiểu mới
rất đa dạng :Hình thức kinh doanh cây công nghiệp,cây ăn quả,trang trại trồng
rừng nông lâm kết hợp,trang trại nuôi trồng thuỷ sản... Về mặt quan hệ sản xuất
,thay cho mô hình hợp tác xã kiểu cũ,nhiều nhân tố mới về đổi mới hợp tác xã cũ
cũng suất hiện như :Hợp tác xã dịch vụ,hợp tác xã cổ phần,liên kết giữa các
kinh tế hộ với các doanh nghiệp nhà nước hình thành kiểu hợp tác kinh tế đa
thành phần .
-Tiêu thụ nông lâm sản hàng hoá và xuất khẩu
đều có bước phát triển khá : Đảm bảo gia lương thực và các mặt hàng khác tương
đối ổn định trên địa bàn cả nước ,hạn chế cơn sốt giá. Khối lượng xuất khâủ một
số nông sản hàng hóa tương đối lớn và ổn định.Trong 11 năm qua xuất khẩu hơn 20
triệu tấn gạo, 2,5 triệu tấn cà phê, hơn một triệu tấn cao su mủ khô. So với
năm 1989 khối lương xuất khẩu năm 2001 :gạo gấp 2,53 lần,cà phê7 lân , cao su
mủ khô 3,4 lần...
Đã hình thành nhiều vùng sản xuất chuyên
canh hàng hóa tập trung như :lúa, cà phê, cao su , điều,mía...
Theo hiệp định với các nước trong khối
SEV cũ khi chuyển sang cơ chế mới,các vùng cây công nghiệp đã có bước chuyển
biến đáng kể. Các chính sách như khoán cây,làm vườn liên kết,giao đất làm trang
trại gia đình ,doanh nghiệp.Nhà nước làm nhiệm vụ đầu vào,đầu ra đã thúc đẩy mở
rộng các vùng cây công nghiệp 150 000 ha cà phê,sản lưởng đứng thứ tám trong số
những nước xuất khẩu cà phê trên thế giới,kim ngạch xuất khẩu đạt từ 300-400
triệu USD /năm ,70.000 ha chè ,251 000
ha cao su,19.400 ha dâu tằm .Việc mở rộng diện tích canh tác,tạo thêm việc làm
,xây dựng cơ sở công nghiệp chế biến ,hình thành cơ cấu kinh tế mới :nông
nghiệp – công nghiệp- dịch vụ .Điều này
có ý nghĩa rất lơn ,nhất là các miền trung du miền núi ,vốn là kinh tế tự nhiên
nay nhờ chính sách phù hợp đã được phát triển ,trở thành vùng kinh tế hàng hóa.
Như
vậy,chúng ta đã thực hiện được hai nét mới,tiến bộ trong thực tiễn :
Một là: an toàn lương thực được thực hiện
trên phạm vi cả nước,cho phép cơ cấu sản xuất nông nghiệp vận động theo hướng
đa dạng hoá sản phẩm,chuyển dịch cơ cấu cây trồng,vật nuôi phù hợp với đặc điểm
và lợi thế từng vùng sinh thái ,nhằm mục tiêu tạo việc làm,tăng thu nhập trên
diện tích đất sử dụng.
Hai là: cơ cấu kinh tế nông thôn đang vận
động theo hướng mở mang các hoạt động ngoài nông nghiệp như công nghiệp,xây
dựng, dịch vụ. Có nhiều nhân tố mới xuất hiện trên nhiều vùng với cách làm
mới,sáng tạo, đem lại hiệu quả.Tuy nhiên cũng có những vấn đề mới nẩy sinh mà
các cấp quản lý trên tầm vĩ mô cần quan tâm để hướng dẫn thực hiện .
2.Khó khăn thách thức và
những vấn đề tồn tại.
2.1 Khó khăn thách thức:
Hiện nay nước ta là một trong những nước nghèo
nhất trên thế giới. Đăc biệt ở nông thôn, trình độ phát triển kinh tế, năng
suất lao động, hiệu quả kinh doanh rất thấp. Để tiến hành công nghiệp hoá, hiện
đại hoá nông thôn thì còn nhiều khó khăn và thách thức đang đặt ra :
-Thứ nhất:Sự phát triển của sản xuất tại
Việt Nam lại diễn ra trong bối cảnh mức tăng dân số và tỷ lệ nghèo đói cao,đặc
biệt mức tăng dân số ở nông thôn rất cao và cao hơn ở thành thị.Lao động,việc
làm,thu nhập đang là một vấn đề bức xúc hiện nay ở nông thôn,số lao động chưa
có việc làm tăng lên hàng năm, binh quân ruộng đất giảm đi nhanh ,hạn chế cơ
giới hoá các khâu trong sản xuất nông ,lâm ,ngư nghiệp.
-Thứ hai:Cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao
thông đô thị ,hệ thống phúc lợi công cộng và các vấn đề xã hội khác còn một
khoảng cách xa so với yêu cầu.Thị trường giao lưu hàng hoá phát triển chậm ,làm
cho nông sản hàng hoá tuy chưa nhiều nhưng tiêu thụ đang rất khó khăn,người sản
xuất dễ bi thua lỗ .
-Thứ ba :Công tác giáo dục và đào tạo
,đặc biệt là vùng sâu ,vùng xa, vùng miền núi cao còn nhiều khó khăn ,hạn
chế.Do đó trình độ sản xuất và công nghệ còn thấp kém ,lạc hậu,dẫn tới năng suất lượng hàng nông lâm,thuỷ sản, nhất
là các hàng chế biến xuất khẩu chưa đủ mạnh để hội nhập và cạnh tranh trong khu
vực và trên thế giới
-Thứ tư: Cơ cấu kinh tế nông nghiệp,nông
thôn chuyển dịch chậm và về cơ bản vẫn là thuần nông,tỉ trọng ngành nghề còn
thấp,cách kéo giá giữa hàng nông sản , hàng công nghiệp dịch vụ chưa tương xứng
và ngày càng cách xa, trong khi đó sự phân bố đầu tư của nhà nước chưa thoả
đáng .Do đó cho tới hiện nay số người nghèo của cả nước hầu như tập trung ở
nông thôn,và mức sống chênh lệch giữa nông thôn và thành thị ngày càng xa,điều
đó cản trở cho việc ổn định và phát triển kinh tế – xã hội nông thôn.
-Thứ năm: Căng thẳng về nguồn nhân lực dư
thừa ngày càng trở nên nóng bỏng.Tốc độ tăng dân số ở nông thôn cao lên nguồn lao động ngày càng dồi dào .Trong khi
diện tích đất canh tác vẫn giữ nguyên ,việc làm ngoài nông nghiệp (dịch vụ,chế
biến ) còn chưa nhiều,do đó dẫn đến thiếu việc làm cho người lao động là điều
tất yếu.
-Thứ sáu : Kết quả sản xuất nông,lâm,ngư
nghiệp còn chịu ảnh hưởng năng nề của thiên tai,cho đến nay ta chưa chủ động
hạn chế đươc.Bão lũ đã làm hư hỏng hàng trăm công trình lớn nhỏ,làm thiệt hại
hàng ngàn tấn lương thực .
-Thứ bảy:Trong nhiều năm phát triển chiến
lược kinh tế xã hội chưa chú ý đúng mức tới bảo vệ môi trường ,môi trướng sống
trong lanh ở nông thôn cũng đang bị suy thoái nghiêm trọng.Hiện trạng môi
trường sinh thái ở nước ta nói chung và ở nông thôn nói riêng đã xuống cấp
nhanh chóng,sự cố môi trường có nơi có mức nghiêm trọng.
Với những lý do trên đây,ta có thể thấy Việt
Nam có một xuất phát điểm thấp,và đi lên trong môi trường cạnh tranh gay
gắt.Nhưng đồng thời đây cũng là những yếu tố khiến cho việc hiện đại hoá nông
nghiệp nông thôn thành một nhiệm vụ mà chúng ta phải làm trên con đường xây
dựng CNXH .Bàn về vấn đề này Đại hội Đảng làn thứ IX đã khẳng định : Dân giàu
,nước mạnh ,xã hội công bằng văn minh .Đây chính là yêu cầu tất yếu để nước ta
đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng và ổn định kinh tế,nhằm "xây dựng nước ta có
cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại,cơ cấu kinh tế hợp lý ,quan hệ sản xuất phù
hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất ... đến năm 2020 cơ bản trở
thành một nước công nghiệp " .
Muốn vậy, chúng ta cần nắm rõ những vấn
đề đang đặt ra trước khi giải quyết nó 1.2 Những vấn đề đang đặt ra :
-Bước vào giai đoạn công nghiệp hoá với
xuất phát điểm thấp :
+ Về cơ cấu kinh tế : Kinh tế nông thôn
Việt Nam về cơ bản vẫn là nông nghiệp ,80% dân số và đại bộ phận lao động xã
hội làm nông nghiệp và sống ở nông thôn .Cơ cấu độc canh trong nông nghiệp là
yếu tố làm hạn chế việc phát huy lợi thế so sánh các vùng nông nghiệp sinh thái
,đó là nguyên nhân làm giảm thu nhập của nông dân .Hiện nay,kinh tế nông thôn ở
nhiều vùng còn ở trạng thái thuần nông mà nguồn lao động dư thừa còn nhiều ,làm
GDP bình quân đầu người khu vực nông thôn
ngày càng giảm xa so với thành thị .
+ Sự chênh lệch về cơ cấu dân số giữa nông thôn và thành
thị : Dân số nông thôn năm 1991 là 79%,từ năm 1992 đến nay tỷ lệ đó hầu như
không thay đổi.Mặt khác ,năm 1998 số lượng này là 3.166.000 người chiếm 20%
tổng số lao động trong nước đồng thời tỉ lệ sinh đẻ ở nông thôn còn cao lao
động dư thừa ngày càng lớn .Thực trạng trên đã tạo ra khoảng cách xa hơn giữa thành thị và nông thôn ,dẫn
tới nhiều vấn đề phức tạp khác ,nhất là việc thực hiện công bằng xã hội và phát
triển bền vững.Từ thực trạng trên ,trước mắt cũng như lâu dài về vấn đề lao
động ,việc làm đang được đặt ra cho nên kinh tế nước nhà,không chỉ là vấn đề
cấp bách mà còn là vấn đề xã hội phức tạp.
+Bình quân đất nông nghiệp trên hộ nhân
khẩu quá thấp ở nước ta ,dân số nông thôn tăng nhanh nên bình quân ruộng đất và
nhân khẩu từ 1978-1994 liên tục giảm xuống trong vong 16 năm ,trên phạm vi cả
nước một hộ nông dân quy mô đất nông nghiệp giảm đi 41% đất nông nghiệp trên
nhân khẩu giảm 42,2% .Đây sẽ là một hạn chế đối với nông nghiệp nông thôn nước
ta .
- Một vấn đề bức xúc khác đang đặt ra là : Công nghiệp chưa
gắn với nông nghiệp để hình thành cơ cấu hiệu quả và phát triển bền vững .
-Đầu tư ngân sách cho sự phát triển nông
nghiệp và phát triển nông thôn chưa tương xứng : Nhiều công trình thuỷ lợi sau
một thời gian dài sử dụng đã có biểu hiện xuống cấp ,nếu không được đẩy mạnh
sửa chữa ,củng cố thì giao thông ,thuỷ lợi sẽ cản trở sự phát triển của nông
nghiệp .Để làm được điều này ,giai đoạn công nghiệp hoá ,hiện đại hóa không
phải chỉ là đổi mới phương thức đầu tư ,tăng đầu tư cho xây dựng kết cấu hạ
tầng nông thôn mà còn phải thị trường hoá vốn đến tận thôn ,xã với nhiều hình
thức tín dụng đa dạng .
-Mô hình hoạt động kinh tế : Hiên nay
,Việt Nam bắt đầu hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới ,trong bối cảnh
vừa hợp tác ,vừa cạnh tranh nhau gay gắt.Nông nghiệp và các hoạt động kinh tế nông nghiệp ,dịch vụ ở
nông thôn nước ta ,chủ yếu là quy mô nông hộ nhỏ và tiểu thủ .Hạn chế của loại
hình kinh tế này là :Quy mô nhỏ ,manh mún phân tán ,chưa quen với hoạt động thị
trường,thiếu thông tin,vốn ,công nghệ còn lạc hậu ,ở các vùng trung du miền núi
trình độ lực lượng sản xuất còn thấp phổ biến là kinh tế tự cấp ,tự túc ,hơn
nữa tự nhiên lại càng khó khăn nhiều hơn ,kinh tế nông hộ tiểu chủ dễ bị tổn
thương trong nên sản xuất hàng hóa hoạt đông theo cơ chế thị trường .Kinh tế
quốc doanh nông nghiệp tuy đã trải qua nhiều bước đổi mới song vẫn chưa đóng
được vai trò chủ đạo,công nghệ lạc hậu ,cơ sở vật chất yếu kém ,thiếu vốn,hoạt
đông tách rời với kinh tế nông hộ .
+ Trình độ khoa học công nghệ ứng dụng
vào sản xuất nông ,lâm nghiệp,thuỷ sản và các hoạt động sản xuất kinh doanh còn
thấp ;Về công nghệ sản xuất nông nghiệp chúng ta đã có nhiều chương trình ứng
dụng giống mới,đưa tiến bộ khoa học vào sản xuất nhưng mới tập trung cho cây
lương thực,cây ăn quả ,cây công nghiêp ,chăn nuôi và thuỷ sản thì chúng ta còn
thua kém nhiều so với các nước trong khu vực về công nghệ chế biến nông sản
nhìn chung còn rất lạc hậu ,nhất là công nghệ chế biến chè,cao su ,rau quả ,súc sản và thuỷ sản
.Về ngành nghề thủ công nghiệp chủ yếu là công nghệ truyền thống mẫu mã kém hấp
dẫn ,chất lượng sản phẩm thấp .
Do những tồn tại trên nông sản phẩm Việt
Nam trên thị trường quốc tế sức cạnh tranh kém ,ngoài ra ,do thiếu vốn ,không
đầu tư nhập thiết bị và công nghệ tiên
tiến nên sản phẩm chế biến mới chỉ là sơ chế .Trong bối cảnh kinh tế ngày càng
quốc tế hoá thì khoa học công nghệ có vai trò cực kỳ quan trọng đối với việc
nâng cao năng suất ,chất lượng và hiệu quả ,nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường quốc tế .Đây là vấn đề đặt ra trên tầm vĩ mô .
II . Quan điểm và giải
pháp thúc đẩy nông nghiệp nông thôn trong thời gian tới .
1. Quan điểm .
Các chính sách của nhà nước tác động đến
nông nghiệp nông thôn .
Nông nghiệp, nông thôn là khu vực đặc
biệt quan trọng của nền kinh tế. Sự phát triển của khu vực này có vai trò cực
kỳ quan trọng trong việc thực hiện thành
công sự nghiệp công nghiệp hoá,hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã hội chủ
nghĩa.Nhưng vai trò đó không tự phát,mà tuỳ thuộc rất nhiều vào sự tác động của
Nhà Nước .Trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội nhà nước ta cần tác động vào vào nông nghiệp ,nông thôn bằng các
chính sách sau đây :
1.1 Chính sách ruộng đất.
Ruộng đất là tư liệu sản xuất chủ yếu
trong nông nghiệp, do đó chính sách ruộng đất sẽ tác động rất mạnh đến nông
nghiệp, nông thôn.
Ở
nước ta, về nguyên tắc, người lao động là chủ của đất đai vì đất đai thuộc sở
hữu toàn dân. Nhưng trong hợp tác xã kiểu cũ, người lao động chỉ là chủ trên
danh nghĩa, còn thực tế người lao động thờ ơ, xa lạ với đất đai. Từ khi
có"khoán hộ" người nông dân được giao đất, giao ruộng và vì thế họ
gắn bó với đất đai. Đó là nguyên nhân quan trọng làm cho sản xuất nông nghiệp
đạt được những thành tựu to lớn trong những năm qua. Điều đó chứng tỏ, chính
sách ruộng đất đã đáp ứng được lợi ích của người nông dân. Hiện nay Đảng và Nhà nứơc chủ trương tiếp tục
đẩy mạnh giao đất, giao rừng cho nông dân với thời hạn dài, thậm chí quyền sử
dụng ruộng đất có thể được có thể được kế thừa, thế chấp vv... Đó là chủ trương
đúng, cần tiếp tục thực hiện.
Nhà nước tạo điều kiện thuận lợi để nông
dân thực hiện đầy đủ, đúng pháp lụât các quyền về sử dụng đất đai, khuyến khích
nông dân thực hiện" dồn điền, dồn thửa" trên cơ sở tự nguyện, nông
dân được sử dụng giá trị quyền sử dụng đất để góp vốn cổ phần tham gia phát
triển sản xuất, kinh doanh, liên doanh, liên kết ... Tạo điều kiện thuận lợi
cho việc chuyển đổi mục đích sử dụng đất theo quy hoạch và chuyển nhượng quyền
sử dụng đất theo quy định của pháp luật.
1.2 Chính sách đầu tư .
Sự phát triển của nông nghiệp, nông thôn
phụ thuộc rất nhiều vào các công trình công cộng như : hệ thống thuỷ lợi, hệ
thống giao thông, hệ thống cung ứng điện,giống... Việc xây dựng các công trình
đó đòi hỏi phải có đầu tư rất lớn, vượt xa khả năng kinh tế nông thôn. Vì vậy ,
Nhà nước phải có chính sách đầu tư hỗ trợ cho nông nghiệp, nông thôn. Đồng
thời, Nhà nước phải có chính sách huy động các nguồn lực tại chỗ nhằm xây dựng
cơ sở vật chất, kỹ thuật cho nông nghiệp, nông thôn.
Đầu tư cho nông nghiệp, nông thôn rất cần có
chiến lược tổng thể. Chiến lược đó phải xuất phát từ yêu cầu của sự nghiệp công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, từ đặc điểm riêng về tự nhiên, kinh tế -xã
hội của mỗi vùng, địa phương, từ nhu cầu của thị trường trong nước và thế
giới...
1.3 Chính sách thuế.
Ruộng đất thuộc sở hữu toàn dân và Nhà
nước thay mặt toàn dân thực hiện quyền sở hữu đó. Do đó, việc Nhà nước thu địa
tô là cần thiết và chính đáng. Chính sách thuế nông nghiệp vừa phải xuất phát
từ lý luận địa tô của C.Mác, vừa phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng địa
phương, vào những định hướng lớn của nền kinh tế. Chính sách thuế còn có ý
nghĩa rất to lớn trong việc điều tiết lợi ích giữa các thành phần kinh tế, thực
hiện công bằng xã hội ở nông thôn.
Chính
sách thuế đối với nông nghiệp, nông thôn cần phải lưu ý những vấn đề sau:
Thứ
nhất: Trình độ phát triển của nông nghiệp, nông thôn thấp kém hơn so với các
ngành, các khu vực kinh tế khác. Do đó, mức thuế suất, chính sách thuế áp dụng
cho nông nghiệp , nông thôn sẽ phải khác với các ngành, các khu vực khác.
Thứ hai: Kinh tế nông nghiệp, nông thôn phụ
thuộc rất nhiều vào điều kiện tự nhiên. Do vậy, khi thời tiết không thuận lợi
hoặc thiên tai, cần có sự điều chỉnh chính sách thuế cho phù hợp.
Thứ ba: cư dân nông thôn chiếm tỷ lệ rất
lớn trong dân số cả nước nhưng có mức thu nhập, mức sống rất thấp. Sự ổn định
về kinh tế- xã hội ở khu vực này có ý nghĩa rất quan trọng đối với việc ổn định
kinh tế – xã hội của đất nước. Do đó, chính sách thuế phải đặt trong mối quan
hệ và phải phù hợp với các chính sách xã
hội.
1.4
Chính sách khoa học - công nghệ
Đẩy mạnh ứng dụng tiến bộ khoa học-công nghệ
là một nội dung của phát rriển kinh tế nông nghiệp nông thôn .Nhưng việc ứng
dụng tiến bộ khoa học - công nghệ vào nông nghiệp nông thôn gặp rất nhiều trở
ngai như :khả năng có hạn về vốn liếng , tiếp cận thông tin kém, sự cản trở của
những lề thói ,thủ tục lạc hậu...của người nông dân .Do đó phát triển nông
nghiệp nông thôn đòi hỏi phải có sự quản
lý của nhà nước về khoa học - công nghệ .
Chính
sách khoa học công nghệ phải tính tới những đặc điểm của sản lượng nông
nghiệp,khả năng kinh tế và nhận thực,phong tục ,tập quán,lề thói canh tác của
cư dân nông thôn... Đồng thời, chính sách khoa học - công cghệ còn xuất phát từ
nhu cầu của thị trường thế giới, chiến lược sản phẩm xuất khẩu và khả năng cạnh
tranh của sản phẩm trên thị trường thế giới... Các doanh nghiệp nhà nước trong
nông nghiệp như: công ty giống, vật nuôi, cây trồng, công ty thuỷ lợi, phân
bón; công ty xuất khẩu nông sản... có vai trò hết sức to lớn trong việc tuyên
truyền, phổ biến khoa học - công nghệ cho nong dân. Chính sách khoa học - công
nghệ phải được triển khai dựa trên các hình thức kinh tế này.
1.5
Chính sách giá cả và sản lượng
Trong
cơ chế thị trường, giá cả nông phẩm không chỉ ảnh hưởng đến mức thu nhập, mức
sống của người nông dân mà còn ảnh hưởng đến sản lượng nông sản, đến sự ổn định
xã hội. Do đó, sự can thiệp của Nhà nước vào giá cả và sản lượng nông phẩm là
rất cần thiết.
Trong
những năm được mùa, giá cả nông phẩm thường giảm sút nghiêm trọng, ảnh hưởng
xấu đến đời sống của nông dân và quy mô sản xuất trong những năm tiếp theo. Nhà
nước cần quy định giá sàn đối với nông phẩm. Để gía sàn được thực hiện trên
thực tế, Nhà nước cần có hỗ trợ về tài chính cho các nông dân thu mua nông sản.
Nhà nước cũng cần có dự trữ nhất định về nông sản phẩm để ổn định giá cả vào
những lúc giáp vụ, những năm thời tiết không thuận lợi, thiên tai, lũ lụt ...
Để ổn
định sản xuất nông nghiệp, Nhà nước cần có dự báo về nhu cầu và hướng dẫn sản
xuất với quy mô phù hợp.
Nhà
nước cần có chính sách khuyến khích xuất khẩu nông sản, tìm kiếm và mở rộng thị
trường nông sản.
1.6.
Chính sách tín dụng
Thu
nhập của cư dân nông thôn nhìn chung rất thấp, vì sản xuất nông nghiệp lại rất
nhạy cảm và còn lệ thuộc nhiều vào điều kiện thời tiết. Do vậy, từ nghìn đời
nay, hiện tượng vay nợ lãi vẫn còn tồn tại phổ biến ở nông thôn. Điều này ảnh
hưởng xấu tới sản xuất nông nghiệp và đời sống của dân nông thôn. Không ít gia
đình nông dân bị bần cùng vì nạn cho vay nặng lãi, vì nợ truyền kiếp.
Ngày
nay, thu nhập và đời sống của người nông dân đã được cải thiện đáng kể nhưng
tình trạng thiếu vốn trong sản xuất – kinh doanh vẫn tồn tại phổ biến ở nông
thôn, ảnh hưởng không nhỏ đến sự phát triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn.
Không ít gia đình nông dân vì không có vốn sản xuất, kinh doanh mà rơi vào tình
trạng nghèo đói.
Trong
cơ chế thị trường hiện nay, chức năng của các ngân hàng thương mại là kinh
doanh tiền tệ và lợi nhuận là mục tiêu quan trọng nhất của họ. Xét thuần tuý về
kinh tế, cho người nghèo vay tiền có nghĩa là đầu tư vào lĩnh vực có độ rủi ro
cao và vì thế tất yếu ngân hàng thương mại không muốn cho người nghèo vay tiền,
nếu cho vay thì số lượng ít và lãi xuất cao. Điều đó có nghĩa là người nông dân
khó vay tiền, phải chịu lãi suất cao và do đó khó có cơ hội để cải thiện và
nâng cao mức thu nhập, mức sống.Đây là nghịch lý xét về phương diện xã hội và
trái với việc thực hiện định hướng xã hội chủ nghĩa. Bởi vậy, Nhà nước cần có
chính sách tín dụng phù hợp hỗ trợ cho nông dân.
Chính sách tín dụng phải đáp ứng được các yeu
cầu chủ yếu sau đây:
Thứ
nhất: Tạo điều kiện cho nông dân có thể vay được tiền sản xuất kinh doanh với
lãi suất thị trường.
Thứ
hai: Giúp đỡ nôngdân sử dụng có hiệu quả đồng vốn, vừa hạn chế rỉu ro khi cho
vay, vừa giúp nông dân nâng cao mức thu nhập, mức sống.
1.7-
Chính sách xã hội
Sự phát
triển kinh tế nông nghiệp, nông thôn sẽ tạo ra những tiền đề thuận lợi để phát
triển văn hoá - xã hội ở nông thôn. Tuy nhiên, trong điều kiện cơ chế thị
trường, sự phát triển đó không tránh khỏi làm nảy sinh các vấn đề xã hội: dư
thừa lao động,phân hoá giầu nghèo, các tệ nạn xã hội, sự xuất hiện những tầng
lớp xã hội mới... Do đó , Nhà nước phải có các chính sách nhằm giải quyết và
hạn chế các vấn đề xã hội như: chính sách xoá đói giảm nghèo; chính sách phát
triển văn hoá, y tế, giáo dục; thực thi lụât pháp và thực hiện công bằng, dân
chủ ở nông thôn...
2. Giải pháp đẩy mạnh
công nghiệp hoá ,hiện đại hoá nông nghiệp
nông thôn ở Việt Nam .
Công nghiệp hoá -hiện đại hoá nông
nghiệp,nông thôn là lĩnh vực rất rộng lớn,bao trùm nhiều mặt của đời sống kinh
tế xã hội và cần những giải pháp cụ thể,đồng bộ cụ thể hoá đường lối của Đảng
.Đó là :
2.1 Đầu tư xây dựng cơ sở vật chất-kỹ thuật,đẩy
mạnh ứng dụng khoa học và công nghệ tiên tiến .
Vấn
đề mấu chốt đặt ra là làm sao tăng năng suất trong khu vực kinh tế nông
nghiệp;thực hiện cơ giới hóa,đẩy mạnh ứng dụng khoa học công nghệ .Muốn tăng
năng suất lao động, giảm bớt chi phí đầu vào,thay đổi hợp lý cơ cấu sản xuất
nông nghiệp .Sản xuất máy nông nghiệp phải được coi là hướng đầu tư chủ yếu
của công nghiệp cơ khí . Hiện nay, cả
nước có trên 115 000 máy kéo các loại, gấp 1,5 lần so với năm 1985, nhưng mức
bình quân như vậy vẫn thấp hơn nhiều so với các nước nông nghiẹp phát trỉên
trong khu vực như: Thái Lan, Trung Quốc.
Song song với quá trình cơ khí hoá, cần
đẩy mạnh thuỷ lợi hoá, tăng cường vốn ngân sách cho các công trình thuỷ lợi
trọng diẻm, đặc biệt là các dự án nằm trong chương trình phát triển kinh tế –
xã hội và kiểm soát quá trình sống chung với lũ ở ĐBSCL. Làm tốt công tavs thuỷ
lợi hoá sẽ nông cao hiệu quả chuyển đổi cơ cấu cây trồng, vật nuôi. Chie thị số
63/CT-TƯ đã chỉ rõ " Củng cố và tăng đầu tư cho một số trung tâm nghiên
cứu khoa học cơ bản hiện đại,nhất là công nghệ sinh học ,tạo bước chuyển hoá
mới về giống; có quy định trong sản xuất, bảo quản, chế biến nông - lâm- hải
sản để trước mắt khắc phục những yếu kém về năng suất,chất lượng và khả năng
cạnh tranh của nông sản Việt Nam; tiến tới có thể xâm nhập sâu rộng vào thị
trường nước ngoài " Theo đó chúng ta cần đầu tư mạnh mẽ vào khoa học công
nghệ sinh học nhất là công nghệ gen. Một kiểu gen mới cho giống cây trồng vật
nuôi có thể làm cho năng suất lao động tăng lên gấp nhiều lần.Trong đó điều
kiện nền kinh tế nước ta đang trong quá trình hội nhập và hướng ra xuất khẩu,
chúng ta phải nhanh chóng đưa khoa học công nghệ vào khâu bảo quản nông sản.
Kinh nghiệm cho thấy, với công nghệ tiên tiến, thời gian bảo quản dài hơn và số
lượng tổn thất chỉ khoảng 0,1%-0,2% năm; còn theo cách cũ thì thời gian bảo
quản ngắn hơn tổn thất lên tới 1%-1,2% năm, áp dụng công nghệ bảo quản tiên tiến
sẽ góp phần nâng cao chất lượng nông sản và mang lại hiệu quả kinh tế cao .
2.2- Quy hoạch tổng thể gắn liền với
chuyển dịch cơ cấu cây trồng vật, nuôi và phân bố nguồn lực chủ yếu .
Để
làm tốt các công tác này. Bộ nông nghiệp và phát triển nông thôn phối hợp với
Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ khoa học công nghệ và các ban ngành liên quan căn cứ
vào điều kiện tự nhiên, môi trường sinh thái và các tập quán tâm lý xã hội của
từng địa phương ra quy hoạch tổng thể mang tính chiến lược đối với từng vùng
kinh tế, nhất là các vùng nông nghiệp trọng điểm: trồng lúa ở đồng bằng Sông
Cửu Long, đồng bằng Bắc Bộ; nuôi tôm ở các tỉnh miền Tây nam bộ; trồng cà phê ở
tây nguyên; trồng chè ở Trung Du Bắc Bộ, trồng cao su, tiêu , điều ở Đông Nam
Bộ vv...Tuy nhiên, việc quy hoạch tổng thể này phải đặt trong mối tương quan
với việc phát triển cơ sở hạ tầng, phát triển kinh tế xã hội ở từng vùng, từng
khu vực cụ thể. Việc phân bổ nguồn lực và chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông
nghiệp phải nhằm đẩy mạnh chuyên canh, thâm canh và khai thác tối đa các nguồn
nhân lực. Kinh nghiệm ở Cà Mau cho thấy, thông qua chuyển dịch cơ cấu cây
trồng, vật nuôi, nhiều vùng trong tỉnh như : Đầm Dơi, Cái Nước, Ngọc Hiển và
thành phố Cà Mau đã có nhiều thay đổi đáng kể.Trong năm 2001, Cà Mau đã đạt
doanh số xuất khẩu thuỷ sản là 300 triệu USD. Đến nay tỉnh Cà Mau đã có tới 202
nghìn ha nuôi tôm, trong đó có 18 nghìn ha nuôi tôm rừng; 10 nghìn ha nuôi tôm
vườn; 26 nghìn ha nuôi tôm - lúa; phổ biến nhất là nuôi tôm sinh thái với 148
nghìn ha, ở thời điểm hiện nay, chúng ta đã vượt qua mức đảm bảo an ninh lương
thực, sản xuất nông nghiệp cần có chuyển đổi để đảm bảo hiệu quả kinh tế; phải
có quy hoạch trồng lúa chuyên về xuất khẩu cũng như có kế hoạch chuyển một phần
trồng lúa sang nuôi trồng thuỷ sản. Gắn với quy hoạch các vùng nông nghiệp
trọng điểm, cần xây dựng các khu chế biến, công nghệ sau thu hoạch và các hoạt
động dịch vụ để nâng cao tỷ suất hàng hoá nông nghiệp, nâng cao chất lượng và
hạ giá thành, tạo điều kiện cho hàng hóa Việt Nam có thể đứng vững và cạnh
tranh được với hàng hoá của các quốc gia khác trên thị trường quốc tế .Việc
điều chỉnh cơ cấu và nguồn lực phải gắn liền với tăng cường điều chỉnh cơ cấu
đầu tư.Trong thời gian tới, cần phải nâng mức đầu tư cho nông nghiệp, ưu tiên
cho những vùng trọng điêm và ưu tiên cho xuất khẩu; tạo môi trường thuận lợi về
pháp lý, thông thoáng trong kinh doanh để thu hút nguồn vốn ODA, FDI và các
nguồn tài trợ khác.
2.3 - Nền kinh tế nước ta
đã và đang chuyển dịch từ sản xuất nhỏ,tự cung tự cấp sang nền kinh tế hàng
hoá.
Các mặt
hàng nông sản không chỉ thoả mãn nhu cầu trong nước mà còn hướng ra xuất khẩu.
Bình quân hàng năm giai đoạn tư 1999-2000, nước ta đã xuất khẩu 2,6 triệu tấn
gạo, 280 tấn cà phê, 21,1nghìn tấn tiêu, 23,35 nghìn tấn điều, 155 nghìn tấn cao
su, 24 nghìn tấn chè, đặc biệt xuất khẩu thuỷ sản năm 1980 chỉ đạt 11 triêu
USD,đến năm 2000 đạt 1,47 tỉ USD và năm
2001 đạt 1,74 tỉ USD kim ngạch xuất khẩu với sản lượng là 2,2triệu tấn).Thành
tựu đó góp phần quan trọng từ tăng ngoại tệ từ xuất khẩu các sản phẩm nông -
lâm- thuỷ sản trong những năm qua chiếm tỷ trọng từ 45%-47% tổng giá trị xuất
khẩu cả nước .
Bước sang thế kỷXXI toàn cầu hoá nền kinh
tế là một tất yếu khách quan .Việt Nam đã và đang hội nhập nền kinh tế khu vực
và thế giới. Với áp lực hội nhập ngày càng gia tăng, nhất là khi Trung Quốc đã
gia nhập WTO; Hiệp định thương mại Việt Nam –Hoa Kỳ đã được Quốc hội hai nước
thông qua; chúng ta đang cam kết về thuế quan để thực hiện AFTA vào năm
2006...,là những điều kiện vừa tạo những cơ hội mới, nhưng cũng không ít thách
thức mới. Thị trường nông sản Việt Nam phải đặt trong mối tương quan với thị
trường nông sản thế giới.Để các mặt hàng nông sản Việt Nam có chỗ đứng vững
chắc trên thương trường quốc tế, chúng ta cần tiến hành đồng bộ các giải pháp
sau:
(1) – Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn,
Bộ thương mại kết hợp với Bộ ngoại giao thông qua đại sứ quán ở các nước để tìm
các đối tác kinh tế hữu hiệu, tìm thị trường và quảng cáo cho hàng hoá Việt
Nam. Dự đoán xu hướng cung- cầu về hàng
nông sản trên thị trường quốc tế, trên cơ sở đó đề ra chiến lược phát triển lâu
dài về xuất khẩu, đồng thời phải có chiến lược thông tin về thị trường quốc tế
thông qua các trung tâm xúc tiến thương mại được lập ở nước ngoài để nắm nhu
cầu thị yếu của khách hàng( cả về chủng loại, mẫu mã, giá cả, thị yếu của người
tiêu dùng); tạo chủ động trong xuất khẩu hàng nông sản.
(2)-Các bộ có liên quan cần đưa ra các
chính sách thuế ưu đãi đối với khu vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhất
là những vùng kinh tế nông nghiệp trọng điểm (miễn giảm thuế sử dụng đất, giảm
thuế suất đối với các loại vật tư nông nghiệp...); hình thành quỹ hỗ trợ hoặc
bảo hiểm giá đối với các mặt hàng nông sản xuất khẩu. Xây dựng chính sách hỗ
trợ về lãi suất đối với kinh tế nông
nghiệp; đẩy mạnh tín dụng đầu tư trung, dài hạn đối với các vùng nông nghiệp
trọng điểm; đơn giản hoá thủ tục vay vốn ngân hàng, nhất là đối với người nông
dân. Ngân hàng nhà nước phối hợp với các ngành hữu quan sớm cho ra đời Ngân
hàng hỗ trợ xuất-nhập khẩu, một nhân tố quan trọng để xuất khẩu hàng nông sản.
(3)- Hiện nay, trình độ lao động tại khu
vực kinh tế nông nghiệp và nông thôn nhìn chung còn yếu về chất lượng và thiếu
về số lượng, cơ bản vẫn là lao động thủ công.Trong một thời gian dài , chúng ta
chưa chú ý đến đào tạo nguồn nhân lực cho khu vực này, đặc biệt là những ngành
nghề gắn liền với quá trình bảo quản chế biến- khâu quan trọng làm tăng giá trị
nông sản. Kiến thức của người nông dân về khoa hoc- kỹ thuật(nhất là công nghệ
sinh học), về thị trường còn rất hạn chế(chưa hiểu thế nào là AFTA, ra nhập
AFTA thì có lợi thế và hạn chế gì,vv...).Vì vậy, đầu tư vào phát triển nguồn
nhân lực cho nông nghiệp và nông thôn phải được coi là một giải pháp lớn và
phải chiếm một tỷ trọng đáng kể trong ngân sách nhà nước dành cho nông nghiệp.
Cần cho xây dựng mới và củng cố các trường dạy nghề phục vụ cho phát triển nông
nghiệp; có chính sách thoả đáng cho đội ngũ trí thức làm việc tại các vùng nông
thôn; "khuyến nông","khuyến ngư"; đây là một biện pháp hết
sức quan trọng nhằm nâng cao trình độ của người nông dân trong điều kiện chúng
ta tiếp cận với nền kinh tế trí thức. Phát triển mạnh tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng ở
địa bàn nông thôn,giúp cho nông dân hiểu biết hơn về thị trường trong nước và thế giới.
Gắn liền với quá trình đổi mới và kiện
toàn lại các loại hình hợp tác xã, cần áp dụng mô hình hợp tác xã kinh doanh đa
ngành hoặc chuyên ngành.thí điểm mô hình hợp tác xã công - nông - thương tín
trong điều kiện phát triển nền kinh tế nông nghiệp hướng ra xuất khẩu.Thực hiện
tốt cơ chế liên kết các thành phần kinh tế, nhất là doanh nghiệp nhà nước;đây
là hình thức biểu hiện sinh động mối liên minh công - nông kinh tế.(Hiện một số
hợp tác xã ĐBSCL ngay từ khi thành lập đã có sự hỗ trợ của Nhà Nước, nhờ đó,
các công ty lương thực, vật tư, bảo vệ thực vật...các tỉnh đã mua sắm được một
số may nông nghiệp, cải thiện điều kiện lao động cho nông dân).Việc mở rộng các
hình thức liên kết kinh tế tập thể với các thành phần kinh tế khác sẽ mang lại
sức mạnh to lớn trong phát triển các tổ chức hợp tác, hợp tác xã trong thời kỳ
mới, phấn đấu để kinh tế tập thể cùng với kinh tế nhà nước ngày càng trở thành
nền tảng vững chắc trong nền kinh tế quốc dân. Đó cũng chính là vận dụng đúng
quy luật quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ của lực lượng
sản xuất trong giai đoạn hiện nay.
Thực hiện đồng bộ các giải pháp trên sẽ
tạo nên sức mạnh tổng hợp phát huy mọi tiềm năng vốn có của lực lượng sản xuất,
tạo bước phát triển mới về chất trong sản xuất nông nghiệp.
PHẦN III
PHẦN TỔNG KẾT
Quá
trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn theo định hướng XHCN đang được tiến hành ở Việt Nam theo một
quy luật tất yếu khách quan. Với xuất phát điểm thấp và những khó khăn do bối
cảnh lịch sử tạo ra, nhưng với sự lãnh đạo của Đảng và Nhà Nước, quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hoá ở nước ta đã đạt được những bước tiến đáng kể ..
Như chúng ta đã biết, công nghiệp hóa là quá
trình thực hiện được gắn liền với những chặng đường nhất định.Trong mỗi chặng
đường đó, công nghiệp hoá được tiến hành với những nội dung khác nhau và tất
yếu được hoàn thành không giống nhau, ở nước ta nội dung chính của quá trình
công nghiệp hóa ở chặng đường đầu là: tập trung sức mạnh phát triển nông nghiệp,
coi nông nghiệp thực sự là mặt trận hàng đầu, đưa nông nghiệp một bước lớn lên
sản xuất lớn XHCN. Một số nước trên thế giới đã tiến hành thành công sự nghiệp
công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp ở nông thôn, và họ đã có một nền nông
nghiệp rất phát triển, nông thôn hiện đại (như Mỹ, Anh ...). Chúng ta muốn phát
triển một nền nông nghiệp đạt được tới trình độ đó là một vấn đề lớn, vô cùng
khó khăn. Do đó, chúng ta cần có chủ trương chính sách đúng đắn và thực hiện những bước đi đúng đắn và thực hiện
những bước đi hết sức hợp lý thì mới có thể thành công. Nhưng liệu quá trình đó
diễn ra trong bao lâu? .
Trong giai đoạn hiện nay, trong bối cảnh của
thời đại này, chúng ta có nhiều cơ hội mới song cũng có nhiều thách thức mới
nảy sinh, đặc biệt là sự chống phá chủ nghĩa xã hội của chủ nghĩa đế quốc. Điều
này làm cho quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn ở
nước ta bị cản trở.
Chính vì lẽ đó, Đảng và Nhà nước ta đã đề ra
đường lối chủ trương, chính sách nhằm đưa công cuộc đổi mới lên một tâm cao
mới, đẩy mạnh sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc mà trọng tâm là công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước, đặc chú trọng tới công nghiệp hoá nông thôn vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng dân chủ và văn minh, vững bước đi lên CNXH.
Với tư cách là sinh viên Việt Nam nói chung và
Đại Học Kinh Tế Quốc Dân nói riêng,
chúng ta phải phấn đấu trở thành lực
lượng đi đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông
thôn Việt Nam ngay từ khi còn ngồi trên ghế giảng đường đại học, cố gắng hết
sức mình học tập. Làm như vậy là ta góp phần xây dựng một đất nước Việt Nam
vững mạnh trong tương lai .
TÀI LIỆU THAM KHẢO
1/ Giáo
trình kinh tế chính trị Mác - Lê
Nin.
NXB
Chính trị quốc gia Hà Nội,2002.
2/ Hỏi đáp về công nghiệp hoá ,hiện đại hoá.
NXB Thanh Niên,1999.
3/ Nông nghiệp Việt Nam bước vào thế
kỷ XXI.
NXB Chính trị quốc gia Hà
Nội,1998.
4/Tạp chí nghiên cứu kinh tế số 301
(6/2003).
Đỗ Hoài Nam:CNH-HĐH nông nghiệp nông
thôn theo lô gíc rút ngắn.
5/ Tạp chí công sản số
22+23(8/2003).
Võ Hồng Dũng:Chuyển dịch cơ cấu kinh
tế đồng bằng Sông Cửu Long.
6/ Tạp chí công sản số 17 (6/2003).
Nguyễn Việt Bích:Phát triển công nghiệp nông thôn là khâu mấu chốt trong
chiến lược phát triển nhanh bền vũng
Nông nghiệp –Nông thôn.
7/ Tạp chí cộng sản số28 (10/2002).
Tạo bước chuyển biến mạnh mẽ hơn
nữa tiến trình công nghiệp hóa –
nông nghiệp –Nông thôn.
8/ Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ VIII.
Chính trị quốc gia Hà Nội,1996.
9/
Văn kiện đại hội toàn quốc lần thứ IX.
Chính trị quốc gia Hà
Nội,2001.
10/ Báo nhân dân số 17005 tháng
2-2002.
Số 17006
tháng 2-2002.
11/Báo Hà Nội mới số11782 tháng
11/2001.
12/ Đề án phát triển công nghiệp
hoá,hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn- Việt Nam thời kỳ1998-2000.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét