RSS
Write some words about you and your blog here

Thứ Bảy, 13 tháng 9, 2014

Tài liệu thi nội dung: Ra quyết định và thực hiện quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lý

Quyết định của cán bộ lãnh đạo quản lý cơ sở  
   Quan trọng nhất của quá trình quản lý là việc ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định. Quyết định quản lí được coi là sản phẩm của người cán bộ lãnh đạo, quản lí nói chung, của cán bộ lãnh đạo, quản lý cơ sở nói riêng. Đây là sản phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, một quyết định đúng và đắn và kịp thời sẽ quyết định đến chất lượng công việc của cả một tập thể. Tuy nhiên công việc của tập thể đó sẽ không mang lại hiệu quả nếu quyết định được tổ chức thực hiện cẩu thả, không đúng qui trình, không theo nguyên tắc. Do đó, việc tổ chức thực hiện quyết định của cán bộ lãnh đạo, quản lí phải có qui trình, nguyên tắc khoa học
     Khái niệm: Quyết định LĐ,QL là sự thể hiện ý chí của các chủ thể trong hoạt động LĐ,QL xã hội, tiến hành theo một trình tự, thủ tục, được thể hiện dưới những hình thức nhất định như: nghị quyết, quyết định, chỉ thị…; nhằm tổ chức và điều chỉnh các quá trình xã hội và hành vi hoạt động của con người theo định hướng nhất định.
Căn cứ vào chủ thể ra quyết định LĐ,QL cấp cơ sở có các loại quyết định LĐ,QL sau:
- Quyết định LĐ,QL của tổ chức Đảng.
- Quyết định LĐ,QL của chính quyền cơ sở.
Căn cứ vào thẩm quyền ra quyết định:  Các cơ quan LĐ Đảng cấp cơ sở ban hành
Nghị quyết của Đại hội đảng bộ (Đại hội đại biểu hoặc đại hội toàn thể đảng viên); Nghị quyết của Ban chấp hành đảng bộ cơ sở.
+ Nghị quyết là văn bản ghi lại các quyết định được thông qua ở đại hội, hội nghị cơ quan lãnh đạo đảng các cấp, hội nghị đảng viên về đường lối, chủ trương, chính sách, kế hoạch hoặc các vấn đề cụ thể.
+ Quyết định là văn bản dùng để ban hành hoặc bãi bỏ các quy chế, quy định, quyết định cụ thể về chủ trương, chính sách, tổ chức bộ máy, nhân sự thuộc phạm vi quyền hạn của cấp uỷ, tổ chức cơ quan đảng.
Chính quyền cấp cơ sở ban hành
+ Quyết định quy phạm
Nghị quyết của Hội đồng nhân dân: nghị quyết của Hội đồng nhân dân xã, phường, thị trấn (gọi chung là cấp xã) được ban hành để quyết định chủ trương, biện pháp trong các lĩnh vực của đời sống xã hội, thi hành pháp luật, xây dựng chính quyền địa phương trên địa bàn xã, phường, thị trấn quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Uỷ ban nhân dân và các văn bản bản quy phạm pháp luật khác có liên quan của cơ quan nhà nước cấp trên.
Quyết định, chỉ thị của Uỷ ban nhân dân: quyết định của Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành để thực hiện chủ trương, biện pháp trong các lĩnh vực đời sống xã hội, thi hành pháp luật trên địa bàn xã, phường, thị trấn quy định tại Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân, Uỷ ban nhân dân và các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan của cơ quan nhà nước cấp trên.
Chỉ thị của Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành để quy định biện pháp  chỉ đạo, kiểm tra hoạt động của cơ quan, tổ chức, cá nhân thuộc phạm vi quản lý trong việc thực hiện văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, của Hội đồng nhân dân cùng cấp và quyết định của mình.
+ Quyết định cá biệt
Quyết định của Chủ tịch Uỷ ban nhân dân cấp xã được ban hành trên cơ sở các quyết định quy phạm với mục đích là giải quyết các công việc cụ thể và được áp dụng một lần cụ thể đã xác định. Quyết định cá biệt chính là cơ sở phát sinh, thay đổi, chấm dứt các quan hệ pháp luật cụ thể.

Quy trình tổ chức thực hiện quyết định LĐ, QL cấp cơ sở.
          a. Triển khai quyết định
          Việc triển khai quyết định LĐ,QL cấp cơ sở đến đối tượng quản lý phải theo đúng quy định của pháp luật, Điều lệ của Đảng.
          Nhận được quyết định, các tổ chức, cơ quan, cá nhân có liên quan phảI thực hiện triệt để bằng cách nghiên cứu kỹ lưỡng, đề ra kế hoạch, biện pháp thực hiện cho phù hợp với điều hiện cụ thể của đơn vị, địa phương mình, đảm bảo việc triển khai thực hiện không được trái với quyết định LĐ,QL đã được ban hành.
          b. Tổ chức lực lượng thực hiện quyết định
Cần bố trí, tổ chức lực lượng cán bộ phù hợp để thực hiện quyết định, đồng thời bảo đảm những phương tiện cần thiết về vật chất, về tài chính cho việc thực hiện quyết định.
Tuỳ thuộc vào từng loại quyết định LĐ,QL cấp cơ sở. Các biện pháp có thể lựa chọn là:
- Quyết định được thực hiện đối với toàn bộ phạm vi đối tượng, lĩnh vực cần thiết điều chỉnh, tác động.
- Quyết định được thực hiện thí điểm, sau đó mới sơ kết, tổng kết để rút kinh nghiệm và ra quyết định chính thức để triển khai rộng rãi.
- Quyết định được triển khai thực hiện rộng, nhưng cần có sự chỉ đạo để nhanh chóng rút kinh nghiệm để chỉ đạo thực hiện tiếp tục.
          c. Kiểm tra việc thực hiện quyết định
          Một khâu không thể thiếu được trong hoạt động LĐ,QL nói chung và LĐ,QL cấp cơ sở nói riêng là theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định LĐ,QL. Do đó, việc ra quyết định LĐ,QL phải gắn liền với việc kiểm tra thực hiện quyết định.
          Việc kiểm tra thực hiện quyết định có nhiệm vụ nắm tình hình và kết quả một cách có hệ thống, có kế hoạch. Việc kiểm tra phải chú ý tới cả hai mặt của việc thực hiện quyết định. Đó là: tìm ra nguyên nhân của việc không thực hiện hoặc thực hiện không tốt quyết định. Và cũng chú ý tới kết quả tốt, tìm ra những ưu điểm, đúc kết bài học kinh nghiệm thành công trong việc thực hiện quyết định.
          Việc kiểm tra thực hiện quyết định LĐ,QL cấp cơ sở phải được xây dựng thành kế hoạch ngay từ giai đoạn nghiên cứu dự thảo quyết định; trong đó xác định rõ cơ quan, tổ chức, cá nhân có trách nhiệm kiểm tra và đối tượng chịu sự kiểm tra. Tiếp đó, việc kiểm tra phải được tiến hành ngay sau khi ban hành quyết định và trong suốt thời gian thực hiện quyết định.
          * Các hình thức kiểm tra có thể áp dụng:
          - Kiểm tra thường xuyên và toàn diện trong suốt quá trình diễn biến thực hiện quyết định
          - Kiểm tra đột xuất có trọng điểm, nhằm vào một số khâu nhất định
          - Kiểm tra tổng kết việc thựuc hiện quyết định
          - Qua công tác kiểm tra, căn cứ vào kết quả kiểm tra, cơ quan, tổ chức có thẩm quyền phải xử lý kết quả kiểm tra.
          - Đôn đốc việc thực hiện, bổ sung quyết định cần thiết
          - Khen thưởng người tốt, việc tốt
          - Xử lý cơ quan, tổ chức, cá nhân sai phạm
          - Sơ kết
          d. Tổng kết, đánh giá việc thực hiện quyết định
          Tổng kết, đánh giá phải dựa trên việc xử lý các số liệu thể hiện kết quả thực hiện, xử lý các thông tin phản hồi, xử lý kết quả kiểm tra việc thực hiện quyết định…Điều quan trọng là phải đánh giá việc thực hiện quyết định LĐ,QL một cách chính xác, khách quan, trung thực, cụ thể kết quả thực hiện quyết định, tuyệt đối tránh bệnh phô trương, thổi phồng thành tích. Nếu làm tốt công tác này góp phần tăng cường hiệu lực, hiệu quả công tác LĐ,QL cấp cơ sở.
2. Kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định LĐ,QL
          a. Kỹ năng lập kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL.
Lập kế hoạch là một khâu trong chu trình LĐ,QL. Trong quy trình tổ chức thực hiện quyế định LĐ,QL cấp cơ sở, lập kế hoạch là bước đầu tiên trong quy trình tổ chức thực hiện quyết định và có ý nghĩa hết sức quan trọng đảm bảo hiệu quả thực hiện quyết định trên thực tế. Tuy nhiên, lập kế hoạch tổ chức thực hiện quyết định LĐ,QL phải được đặt trong mối quan hệ gắn bó chặt chẽ với các khâu của chu trình thựuc hiện quyết định.
          * Nếu người LĐ có kỹ năng lập kế hoạch thì nó được thể hiện ở các yếu tố sau:
          + Việc tư duy có hệ thống tiên liệu được các tình huống trogn hoạt động LĐ,QL.
          + Biết phối hợp mọi nguồn lực của tổ chức một cách hữu hiệu hơn.
          + Biết tập trung vào các mục tiêu và chính sách của tổ chức.
          + Nắm vững các nhiệm vụ cơ bản của tổ chức để phối hợp với các nhà LĐ,QL khác.
          + Sẵn sàng ứng phó và giải quyết nhanh chóng với các tình huống đặt ra trong quá trình thực hiện quyết định LĐ,QL.
          + Phát triển hữu hiệu các tiêu chuẩn kiểm tra việc thực hiện kế hoạch đã đề ra.
          * Trình tự lập kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL như sau:
          + Bước 1: Xác định mục tiêu yêu cầu của việc thực hiện quyết định.
          + Bước 2: Xác định nội dung việc thực hiện quyết định.
          + Bước 3: Xác định địa bàn, đối tượng, thời gian thực hiện quyết định.
          + Bước 4: Xác định phương pháp thựuc hiện quyết định
          + Bước 5: Xác định phương pháp theo dõi, kiểm tra việc thực hiện quyết định
          b, Kỹ năng chỉ đạo, điều hành thực hiện quyết định LĐ,QL.
          Khi kế hoạch thực hiện quyết định LĐ,QL đã được đặt ra thì bất cứ bất cứ đối tượng chịu sự LĐ,QL đều phải thực hiện nghiêm chỉnh.
          Kỹ năng này giúp cho người LĐ kiểm soát được quá trình thực hiện quyết định LĐ,QL đang được diễn ra thế nào, từ đó
          - Kỹ năng xử lý tình huống trong LĐ,QL.
          Để giải quyết tốt các tình huống trong hoạt động LĐ,QL, người LĐ chú ý những vấn đề sau:
          + Chỉ đạo triển khai giải quyết một cách chủ động theo kế hoạch đã xây dựng trước.
          + Những phát sinh mới nằm ngoài dự liệu cần có ngay những phương hướng giải quyết nhằm ngăn chặn và xử lý kịp thời những sai phạm phát sinh trong quá trình thực hiện quyết định.
          + Thực hiện đúng trình tự, thẩm quyền theo quy định của pháp luật hoặc Điều lệ của Đảng.
          - Kỹ năng giải quyết khiếu nại, tố cáo
          Để thực hiện tốt công tác này người LĐ cần thực hiện đúng các yêu cầu sau:
          + Nắm được các quy định pháp luật của Nhà nước, quy định của Đảng về giải quyết khiếu nại, tố cáo kể cả về thẩm quyền, trình tự, thủ tục giảI quyết khiếu nại, tố cáo.
          + Nắm được các quy định pháp luật về giải quyết khiếu nại, tố cáo đặc thù gắn với thực tế địa phương.
          Những kỹ năng cần trau dồi và thực hiện tốt đó là:
          + Kỹ năng tiếp nhận đơn thư khiếu nại, tố cáo.
          + Kỹ năng giao tiếp của cán bộ, công chức trong thực thi nhiệm vụ công vụ nói chung và tiếp nhận khiếu nại, tố cáo nói riêng.
          + Kỹ năng phân loại, xử lý đơn thư khiếu nại, tố cáo.
          + Kỹ năng xác minh, xem xét và giải quyết đơn thư khiếu nại, tố cáo.
Địa phương tôi đang công tác là một địa bàn miền núi, đa sắc tộc, tỷ lệ người dân tộc thiểu số khá đông; đời sống nhân dân có xuất phát điểm thấp, còn gặp nhiều khó khăn; Các thế lực thù địch lợi dụng tự do tôn giáo lôi kéo kích động người nhẹ dạ gây mất trật tự địa phương; Trình độ đôi ngũ cán bộ, nhất là cán bộ người dân tộc thiểu số còn thấp về mọi mặt. Tuy nhiên, nhận thức được tầm quan trọng của việc ra quyết định và nhất là việc tổ chức thực hiện quyết định, từng cấp ủy đảng đã quán triệt sâu sắc đến toàn thể cán bộ, đảng viên nhằm nâng cao nhận thức trong việc tổ chức thực hiện quyết định của cán bộ lãnh đạo quản lý. Hầu hết các quyết định ngay sau ban hành được lên kế hoạch triển khai cụ thể, sau đó phổ biến cụ thể đến từng cán bộ, đảng viên, nhất là các cán bộ đảng viên liên quan trong quyết định; Nhiều quyết định được niên yết công khai tại trụ sở, được nhanh chóng chuyển đến các tổ chức, cá nhân liên quan; Các cấp ủy đảng chỉ đạo chính quyền, mặt trận và các hội đoàn thể cùng phổi hợp, phổ biến, tuyên truyền nội dung các quyết định đến toàn thể đoàn viên, hội viên và quần chúng nhân dân; Lồng ghép trong việc tuyên truyền phổ biến, thông qua chính quyền, các hội đoàn thể, các cấp ủy đảng tranh thủ tiếp thu những ý kiến phản hồi của nhân dân để tiếp tục đưa ra những ý kiến, chỉnh sửa bổ sung cho phù hợp với tình hình thực tế.
Trong quá trình trình hiện, các cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo quản lý đã chú trọng nhiều đến việc kiểm tra thực hiện quyết định. Việc kiểm tra việc thực hiện quyết định được tiến hành thường xuyên, liên tục, từ đó kịp thời nắm bắt diễn biến thuận lợi cũng như khó khăn, nhờ vậy cấp ủy, người lãnh đạo quản lý đã có những điều chỉnh kịp thời, đảm bảo quyết định phù hợp với tình hình thực tế, đem lại hiệu quả cao. Bên cạnh đó, các cấp ủy đảng, người cán bộ lãnh đạo quản lý địa phương rất coi trọng công tác tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện quyết định, thông qua các buổi tổng kết để tìm ra những sai lệch, nguyên nhân sai lệch, phát hiện những  nguồn lực chưa khai thác, sử dụng hiệu quả để rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn

Một ví dụ cụ thể là việc tổ chức, triển khai thực hiện quyết định thành lạp Ban tỏ chức học nghị quyết đại hội các cấp nhiệm kỳ 2010-2015. Căn cứ hướng dẫn của Huyện ủy Sông Hinh về việc tổ chức học Nghị quyết Đại Hội Đảng toàn quốc lần thứ XI, Đại Hội Đảng bộ tỉnh PY lần thứ XV, Đại Hội Đảng Bộ huyện lần thứ VII.  Ban Thường Vụ Đảng Ủy Thị trấn tôi công tác ra quyết định số 13 thành lập Ban Tổ Chức gồm 03 đồng chí thực hiện tổ chức đợt học tập này ( gồm 1 trưởng ban, 1 phó ban và 1 thành viên ).
  Sa khi ra quyết định, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đưa quyết định này lên trên mạng nội bộ của Công ty để thông báo đến những đồng chí có tên trên trong quyết định biết để thực hiện các nội dung trong quyết định.
  Căn cứ vào chức danh trong quyết định, đồng chí Hà là trưởng ban tổ chức đã họp các đồng chí trong Ban Tổ Chức và đề ra kế hoạch thực hiện như sau: Mời báo cáo viên là các báo cáo viên thuộc Đảng bọ Huyện, thời gian học tập Nghị quyết vào 29, 30 tháng 07 năm 2011, địa điểm: Hội trường thị trấn, các đối tượng tham gia học là cán bộ chủ chốt các ban ngành, đoàn thể thị trấn, các thôn buôn, cán bộ, công chức, viên chức công tác tại Đảng uye, UBND thị trấn, đồng chí trưởng Ban Tổ Chức sau khi soạn thảo kế hoạch đã trình đồng chí Bí Thư phê duyệt.
   Sau khi kế hoạch được phê duyệt, tôi và các đồng chí trong Ban Tổ Chức phối hợp với Ban Chấp Hành 2 Đoàn thể cử người chuẩn bị âm thanh, ánh sáng, nhạc Quốc Ca, cắt dán phông chữ và khẩu hiệu, chuẩn bị xắp bàn ghế đúng với số lượng trong kế hoạch, chuẩn bị nước uống. Tất cả những công việc trên đều được chuẩn bị hoàn chỉnh trước ngày học 01 ngày.
   Ban tổ chức làm thư mời báo cáo viên và ghi rõ thời gian , địa điểm học gửi lên Đảng Ủy để báo cáo viên biết ngày và xắp xếp lịch giảng ( thư mời báo cáo viên được gửi trước 30 ngày ).  
   Ban tổ chức học tập Nghị Quyết ra thông báo ngày học là ngày 29 và ngày 30 tháng 07 năm 2011 thời gian; sáng từ 8 giờ đến 11 giờ; chiều từ 1 giờ 30 đến 4 giờ 30 và viết thông báo lên bảng và gửi về các thôn, buôn khu phố trước ngày học là 07 ngày để các đối tượng tham dự học biết và xắp xếp công việc và thời gian để đii học.
   Trong quá trình thực hiện quyết định, Đồng chii1 Bí Thư Đảng Bộ thị trấn thường xuyên mời đồng chí trưởng ban tổ chức đến để báo cáo công tác chuẩn bị đến đâu và gần ngày đi học Đồng chí trực tiếp xuống Hội trường để kiểm tra các công tác chuẩn bị đã được đầy đủ chưa nếu có gì bị thiếu kịp thời chấn chỉnh và bổ sung ngay để cho buổi học Nghị quyết đạt kết quả tốt.
   Sau khi tổ chức học tập Nghị quyết XI xong, Ban Thường Vụ Đảng Ủy đã họp Ban Tổ Chức và đánh giá việc thực hiện đạt kết quả tốt và thành công tốt đẹp.  
Tóm lại, Một quyết định khi ra đời, cần phải tổ chức thực hiện và để giải quyết các vấn đề : Thực hiện cái gì? Tại sao thực hiện? Ai thực hiện? Thực hiện ở đâu? Thời gian thực hiện? Và thực hiện bằng cách nào? vấn đề cốt lỏi là truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết định, đồng thời cũng vạch ra những biện pháp để thực hiện quyết định đó. Với ý nghĩa đó, bên cạnh việc truyền đạt kịp thời quyết định đến người thực hiện thì các cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo, quản lý cần chọn ra người có uy tín và am hiểu về công việc cần thực hiện để khi truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết định đưa ra sẽ được tiếp nhận và thực hiện chính xác đạt hiệu quả cao. Song song với nó, cần phải tổ chức kiểm tra việc thực hiện và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết. Sau khi công tác hoàn thành cần tiến hành tổng kết việc thực hiện quyết định trên để đánh giá được kết quả thực hiện, tìm ra các sai lệch, nguyên nhân sai lệch hoặc các các tiềm năng chưa được khai thác, sử dụng một cách hiệu quả để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lí ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Là người công tác, sinh sống tại địa phương, được tham gia lớp Trung cấp chính trị tại chức K63, tôi càng nhận thức sâu sắc rằng tổ chức thực hiện quyết định cán bộ, lãnh đạo quản cấp cơ sở đúng quy trình, nguyên tắc là mấu chốt đem lại thành công hay kém hiệu quả trong việc thực hiện nhiệm vụ chính trị tại cơ sở. Vì vậy để góp phần thực hiện tốt nhiệm vụ chính trị nói chung, tôi nghĩ rằng trước hết mình phải tích cực hơn nữa tự tìm tòi, học hỏi nâng cao trình độ lý luận chính trị, Chủ nghãi Mác Lê Nin, Tư tưởng Hồ Chí Minh; nêu cao tính tích cực, chủ động của người đảng viên, nắm vững quy trình và kỹ năng tổ chức thực hiện quyết định của cán bộ lãnh đạo quản lý, phổ biến lại cho đồng nghiệp, cán bộ, đảng viên cùng đơn vị đểcùng nhau thực hiện tốt quyết định của cán bộ lãnh đạo quản lý, góp phần hoàn thành tốt nhiệm vụ chính trị của cơ sở, ddaps ứng yêu cầu phát triển của đất nước.






Câu 04-KHQL: Hãy trình bày nhận thức cơ bản về quá trình xây dựng, tổ chức thực hiện quyết định quản lý và liên hệ với thực tiễn quá trình ra quyết định ở đơn vị đồng chí.
BÀI LÀM
Quan trọng nhất của quá trình quản lý là việc ra quyết định. Quyết định quản lí được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lí nói chung, của cán bộ lãnh đạo ngành và cơ sở nói riêng. Đây là sản phẩm có ý nghĩa đặc biệt quan trọng, bỡi vì nếu có quyết định đúng đắn và kịp thời thì sẽ đem lại sự giàu có và phát triển, ngược lại nếu quyết định sai và không đúng lúc có thể gây tai hoạ, thậm chí phá sản. Do đó, việc ra quyết định quản lí phải hết sức chính xác, đúng đắn, khoa học và cần vận dụng trên cơ sở tuân thủ các bước, sử dụng các căn cứ và các phương pháp ra quyết định quản lý
Có thể khái quát quyết định quản lý là sản phẩm của một quá trình, dựa vào đó để tiến hành giải quyết các vấn đề trong tổ chức nhằm đạt được mục tiêu của tổ chức. Mỗi quyết định quản lý nhằm trả lời một, hoặc một số câu hỏi sau : tổ chức cần làm gì? Khi nào làm cái đó ? làm trong bao lâu ? ai làm ? và làm như thế nào ?
Như vậy, Quyết định quản lý  là hành vi có tính chất chỉ thị do một cơ quan hay một người đưa ra nhằm định hướng, tổ chức hoạt động của tập thể lao động thực hiện mục tiêu quản lí.
Ra quyết định quản lý là sự lựa chọn các mục đích cũng như các phương tiện và phương pháp để đạt mục đích trong lĩnh vực hoạt động. Việc xác định mục tiêu sẽ giúp cho người quản lí nỗ lực cao hơn đối với những mục tiêu ở mức khó khăn, để từ đó có thể đạt được kết quả như mong muốn.
Đặc điểm của quyết định là sản phẩm của tư duy con người, là kết quả của quá trình thu nhận thông tin, tìm kiếm, phân tích và lựa chọn. Điểm chung của quyết định là tính tư duy và tính tương lai, là sản phẩm sáng tạo của tư duy, là sự lựa chọn tương lai của con người. Bỡi lẽ là sản phẩm tư duy của con người, nên quyết định quản lý luôn bị cácyếu tố chủ quan chi phối : cá tính, quan điểm, trình độ, năng lực của người lãnh đạo. Cho nên, để đảm bảo cho các quyết định quản lý có chất lượng thì khi đề ra các quyết định phải dựa trên các cơ sở khách quan. Đó là : yêu cầu của quy luật khách quan tác động tới đối tượng quản lý; đặc điểm và xu thế phát triển của đối tượng quản lý và điều kiện vật chất và thời gian có thể thực hiện quyết định. Với nội dung trên, quyết định quản lý có năm đặc điểm cơ bản sau :
Thứ nhất, chỉ có chủ thể quản lý mới có quyền ra quyết định.
Thứ hai, các quyết định hướng trực tiếp vào tổ chức, hoạt động của người lao đọng.
Thứ ba, các quyết định chỉ đề ra khi vấn đề và điều kiện đã chín muồi.
Thu tư, quyết định quản lý liên quan trực tiếp đến quá trình thu nhận, xử lý thông tin và lựa chọn phương tiện hoạt động.
Thứ năm, quyết định quản lý được hình thành trên cơ sở hiểu biết các quy luật và sự vận động của hệ thống quản lý.
Do tính chất rất quan trọng của quyết định quản lý và đồng thời để đảm bảo hiệu lực, hiệu quả của nó thì yêu cầu quyết định quản lý phải bảo đảm tính hợp pháp, có căn cứ khoa học, bảo đảm tính thống nhất trong nội dung quyết định, đồng thời phải bảo đảm tính tối ưu, linh hoạt, kịp thời, chính xác và ngắn gọn.
Vấn đề ra quyết định quản lý quả thật không hề đơn giản, nó là cả một quá trình bao gồm nhiều bước phức tạp, nhiêu khê có liên quan đến việc hình thành vấn đề, xác định và lựa chọn phương án thông qua và văn bản hoá quyết định. Gắn với nó là sự sáng tạo, nhạy bén của tư duy nhà lãnh đạo quản lý trên cơ sở thực tiển kết hợp với các phương pháp khoa học và các quy luật khách quan. Thông thường nó bao gồm các giai đoạn cơ bản sau :
Giai đoạn chuẩn bị : Đây là quá trình phát hiện vấn đề, đánh giá tình huống, nêu rõ mục tiêu, tìm hiểu thông tin cần thiết cho quyết định. Trên cơ sở đó xác định tiêu chuẩn, trọng số cho các tiêu chí để đánh giá hiệu quả của các phương án (tiết kiệm vốn, thu hút lao động, lợi nhuận thu được, thị trường ..).
Giai đoạn chủ yếu : Đây là quá trình thu thập thông tin, dữ liệu, số liệu để làm rõ nhiệm vụ cần giải quyết. Trên cơ sở đó chính thức đề ra nhiệm vụ và xây dựng các phương án, lựa chọn phương án tối ưu và ra quyết định.
Hai giai đoạn trên có liên hệ mật thiết, tác động qua lại là điều cần và đủ của một quá trình ra quyết định. Bỡi lẽ, việc phát hiện và đánh giá đúng tình huống là cơ sở đảm bảo cho quyết định mang tính thực tiển và ngược lại, khâu giải quyết vấn đề, ra quyết định đúng đắn là chìa khoá cho sự thành công, đảm bảo cho sự phát triển. Do vậy, nếu không muốn sai lầm, thất bại, thậm chí dẫn đến hậu quả tai hại do quyết định đưa ra sai trái thì đòi hỏi người lãnh đạo phải vận dụng trên cơ sở tuân thủ các bước tiến hành trong quá trình xây dựng quyết định và đặc biệt cần nhấn mạnh đến nhân tố xã hội ảnh hưởng ảnh hưởng tới quá trình ra quyết định như điều kiện lao động, trình độ nghề nghiệp và thái độ lao động, chính sách của nhà nước, mục tiêu, thị trường .. cùng với vai trò cá nhân lãnh đạo, tư duy của tập thể các chuyên gia kết hợp với các phương pháp khoa học trong tính toán số liệu và ra quyết định quản lý .
Một quyết định quản lý giữ vai trò rất quan trọng đối với sự thành bại của đơn vị và chu kỳ sống của 1 quyết định quản lý thường trải qua 5 giai đoạn : giai đoạn mới triển khai, chưa phát huy đầy đủ tác dụng, quyết định bắt đầu phát huy tác dụng, quyết định phát huy tác dụng ở mức cao nhất, quyết định bắt đầu bị hạn chế bởi tác động của môi trường và thị trrường biến đổi và cuối cùng là giai đoạn quyết định thể hiện sự trì trệ, kìm hãm đời hỏi phải có quyết định phù hợp hơn để thay thế. Nắm được chu kì sống của quyết định sẽ giúp cho người lãnh đạo lựa chọn được thời điểm ra quyết định và biết khi nào phải thay đổi và đề ra quyết định mới.
Một quyết định khi ra đời, cần phải tổ chức thực hiện và để giải quyết các vấn đề : Thực hiện cái gì? Tại sao thực hiện? Ai thực hiện? Thực hiện ở đâu? Thời gian thực hiện? Và thực hiện bằng cách nào? vấn đề cốt lỏi là truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết định, đồng thời cũng vạch ra những biện pháp để thực hiện quyết định đó. Với ý nghĩa đó, bên cạnh việc truyền đạt kịp thời quyết định đến người thực hiện thì các cấp ủy đảng, cán bộ lãnh đạo quản lý cần chọn ra người có uy tín và am hiểu về công việc cần thực hiện để khi truyền đạt nội dung, mục đích và ý nghĩa của quyết định đưa ra sẽ được tiếp nhận và thực hiện chính xác đạt hiệu quả cao. Song song với nó, cần phải tổ chức kiểm tra việc thực hiện và kịp thời điều chỉnh khi cần thiết. Sau khi công tác hoàn thành cần tiến hành tổng kết việc thực hiện quyết định trên để đánh giá được kết quả thực hiện, tìm ra các sai lệch, nguyên nhân sai lệch hoặc các các tiềm năng chưa được khai thác, sử dụng một cách hiệu quả để từ đó rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lí ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Tóm lại, quyết định quản lý trong cơ chế mới hiện nay đòi hỏi phải xây dựng căn cứ khoa học cho các quyết định quản lý, và từ đó cũng đòi hỏi những cán bộ của bộ máy quản lý phải có phẩm chất và năng lực tương ứng. Việc ra quyết định quản lý được xem là nội dung hàng đầu và chủ yếu của công tác quản lý, là cơ sở quan trọng nhất để đánh giá trình độ, năng lực của người lãnh đạo, người quản lý.
Luật XD được QH thông qua và có hiệu lực từ ngày 01/7/2004 thay thế NĐ 52/CP ngày 8/701999 của Chính phủ về quản lý ĐTXDCB.
Luật XD ra đời nhằm hoàn thiện hệ thống pháp luật và luật hoá các hành vi của chủ thể trong công tác QL&ĐTXDCB nhằm đáp ứng các nhu cầu bức thiết hiện nay :
Phân cấp quản lý.
Vai trò và trách nhiệm của các chủ thể tham gia trong quá trình ĐT XDCB.
Đây là bộ luật mang tính thực tiển và khoa học cao. Nhưng xét ở khía cạnh toàn diện, phối hợp thực hiện còn nhiều vấn đề cần phải hoàn chỉnh.
     NĐ 209/CP ngày 7/12/2004 và NĐ 16 ngày 7/02/2005 chưa có thông tư hướng dẫn gây rối trong công tác quản lý.

Câu 05: Trình bày quá trình xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Phân tích một quyết định tại địa phương ?
BÀI LÀM
Một trong những chức năng của quản lý là ra quyết định quản lý. Quyết định quản lý liên quan đến thành bại, đến hiệu quả cao thấp của toàn bộ quá trình quản lý. Quyết định quản lý được coi là sản phẩm của người lãnh đạo quản lý, người lãnh đạo thể hiện tài năng của mình là ở khâu ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định quản lý. Vì vậy, để có quyết định chính xác, đúng đắn, khả thi và hiệu quả, người quản lý phải nắm vững các đặc điểm, vài trò và yêu cầu của  quyết định quản lý, phương pháp xây dựng và tổ chức thực hiện quyết định một cách khoa học. Bằng những kiến thức về khoa học quản lý, chúng ta hãy phân tích làm rõ các nội dung trên.
Quyết định quản lý là hành vi có tính chất chỉ thị do một cơ quan hay một người đưa ra nhằm định hướng, tổ chức hoạt động của tập thể lao động thực hiện mục tiêu quản lý. Ra quyết định là việc lựa chọn các mục tiêu cũng như nguồn lực và đề ra các phương pháp thực hiện để đạt được mục tiêu đó.
Quyết định quản lý ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả quản lý bởi vì một quyết định đúng đắn, kịp thời sẽ đem lại sự giàu có, phát triển ngược lại nếu quyết định sai và không đúng lúc có thể gây trì trệ, ách tắt và nhiều khi dẫn đến phá sản. Mặt khác chu kỳ sống của một quyết định quản lý thường trải qua 5 giai đoạn, để phát huy tối đa hiệu quả của quyết định, người lãnh đạo quản lý phải lựa chọn và ra quyết định kịp thời ngay tại điểm quyết định phát huy tác dụng ở mức cao nhất và phải thay đổi quyết định  khi quyết định thể hiện sự trì trệ, kìm hãm sự phát triển.
Do quyết định quản lý là sản phẩm của chủ thể quản lý nên nội dung của nó thường chứa đựng ý chí chủ quan của người quản lý chi phối như : cá tính, quan điểm, trình độ năng lực nhận thức và vận dụng quy luật của người lãnh đạo quản lý. Cho nên, để đảm bảo cho các quyết định quản lý có chất lượng thì khi đề ra các quyết định phải dựa trên các cơ sở khách quan. Đó là : yêu cầu của quy luật khách quan tác động tới đối tượng quản lý; đặc điểm và xu thế phát triển của đối tượng quản lý và điều kiện vật chất và thời gian có thể thực hiện quyết định. Quyết định quản lý cũng mang những đặc điểm khác như  : do chủ thể quản lý ban hành và chỉ đề ra khi các vận đề đã chín muồi, quyết định hướng trực tiếp vào tổ chức, hoạt động của đối tượng quản lý và có liên quan trực tiếp tới quá trình thu nhận, xứ lý thông tin, lựa chọn phương tiện hoạt động và  cuối cùng là phải được hình thành trên cơ sở hiểu biết quy luật và sự vận động của hệ thống quản lý,  ra quyết định.
 Vì tính chất quan trọng của quyết định quản lý nên nội dung của quyết định quản lý phải đảm bảo các yêu cầu như phải mang : tính khoa học, tính toàn diện, tính khả thi, tính thống nhất, tính kịp thời, tính hiệu quả, tính linh hoạt và tính hợp pháp. Một quyết định khoa học là quyết định phù hợp với định hướng, mục tiêu của tổ chức, phù hợp với quy luật, nguyên tắc, nguyên lý khoa học và xu thế khách quan, phù hợp với điều kiện cụ thể, với tình huống cần đưa ra quyết định và được xây dựng dựa trên cơ sở vận dụng các phương pháp khoa học. Một quyết định toàn diện là quyết định có nội dung bao quát được nhiều vấn đề, thỏa mãn cao các mục tiêu, phù hợp với những ràng buộc nhất định, được sự ủng hộ của số đông. Quyết định có tính thống nhất cao là quyết định được ban hành bởi các cấp, các bộ phận chức năng phải thống nhất theo cùng một hướng do mục tiêu chung xác định và các quyết định được ban hành tại các thời điểm khác nhau thì không được mâu thuẩn, trái ngược và phủ định (những quyết định nào hết hiệu lực phải được bãi bỏ). Một quyết định của tính kịp thời là quyết định ban hành vào thời điểm quyết định có hiệu quả cao nhất, đáp ứng được sự mong đợi của đối tượng quản lý. Một quyết định linh hoạt là quyết định phản ánh được mọi nhân tố mới trong lựa chọn quyết định, phản ánh được tính thời đại, đáp ứng được sự biến đổi môi trường mà quyết định ra đời và thực hiện. Quyết định hợp pháp, hiệu quả và khả thi là quyết định đúng thẩm quyền ban hành, thủ tục, thể thức, không trái với pháp luật quy định; mang lại hiệu quả kinh tế và có khả năng thực hiện được trong thực tế   
Để tổ chức xây dựng và thực hiện một quyết định, nhà quản lý phải tuân thủ chặt chẽ những bước trong quá trình ra quyết định và tổ chức thực hiện quyết định
Quá trình ra quyết định bao gồm 2 giai đoạn, mỗi giai đoạn thực hiện nhiều bước.
Giai đoạn chuẩn bị : giai đoạn này nhà quản lý thực hiện việc phát hiện những vấn đề mà yêu cầu của tổ chức hoặc yêu cầu từ thực tiễn đặt ra, những vấn đề này phải thuộc phạm vi mình quản lý và thuộc thẩm quyền mình ban hành. Trên cơ sở xác định những vấn đề cần ra quyết định nhà quản lý sẽ đánh giá tình huống, xác định những mục tiêu nhiệm vụ phải làm và tìm hiểu những thông tin có liên quan, tác động đến vấn đề đặt ra.  Căn cứ trên việc xác định những thông tin có liên quan cần phải thu thập và các mục tiêu phải đạt được, nhà quản lý sẽ dự đoán kết quả, lựa chọn các chỉ tiêu, các tiêu chuẩn để đánh giá hiệu quả của các phương án và xác định mức độ ưu tiên (trọng số) cho từng tiêu chí đã đặt ra.
Giai đoạn chủ yếu : bước đầu tiên của giai đoạn này thực hiện thu thập thông tin để làm rõ nhiệm vụ cần giải quyết (bao gồm những thông tin về môi trường, thị trường, công nghệ, thông tin về các yếu tố mang tính chính trị :áp lực của nhóm lợi ích, nghiệp đoàn, nhà nước...). Trên cơ sở các thông tin đã thu thập, nhà quản lý sẽ chọn và mời những chuyên gia, những nhà chuyên môn sâu cùng tham gia xây dựng chính thức các nhiệm vụ và các phương án giải quyết vấn đề, thực hiện việc phân tích, so sánh, đánh giá hiệu quả và khả năng đáp ứng của  các phương án đối với các mục tiêu mong đợi nhằm chọn ra phương án tối ưu và cuối cùng là ban hành quyết định quản lý. Để chọn lựa phương án tối ưu, trước khi đưa ra quyết định cuối cùng, người lãnh đạo quản lý cần thiết phải tham khảo ý kiến tập thể và các chuyên gia, bảo đảm tinh thần dân chủ thực sự và tập trung đúng nghĩa. Mặt khác, trong thực tế khi ban hành một quyết định quản lý, ít khi gặp những trường hợp vấn đề đặt ra hoàn toàn mới, do đó, người lãnh đạo trước khi ra quyết định mới cần phải đánh giá lại nội dung và kết quả thực hiện của các quyết định cũ trên cả 2 mặt : cái được và cái chưa được, phân tích nguyên nhân và những kinh nghiệm rút ra từ đó, những yếu tố hợp lý nào cần phải được giữ lại. Kinh nghiệm thực tế cũng cho thấy rằng một quyết định đúng đắn là quyết định có căn cứ và sự phân tích tình hình một cách cụ thể, không chỉ phân tích tình huống mà còn phân tích xu hướng phát triển của vấn đề. Đối với những quyết định mà đối tượng thực hiện và chịu sự tác động là lực lượng đông đảo trong xã hội thì khi chuẩn bị ra quyết định quản lý, nhà quản lý phải quan tâm tới nhân tố xã hội ảnh hưởng tới quá trình tổ chức thực hiện quyết định như: điều kiện thực hiện, trình độ nhận thức và phản ứng, thái độ của người thực hiện, chính sách của Nhà nước, phát triển công nghệ, mục tiêu, thị trường… Trong trường hợp ở phạm vi nhỏ, tính chất công việc đơn giản có thể cho phép người lãnh đạo bỏ qua một số bước nào đó trong các bước kể trên.
Quá trình tổ chức thực hiện quyết định được bắt đầu kể từ khi quyết định được cấp thẩm quyền phê duyệt.  Bước đầu tiên trong quá trình này là lập kế hoạch triển khai thực hiện quyết định, sau đó tổ chức tuyên truyền giải thích nội dung, mục đích, ý nghĩa của quyết định đến những đối tượng thực hiện quyết định. Quá trình triển khai nội dung quyết định cần làm rõ các vấn đề : thực hiện cái gì ? tại sao thực hiện ? ai thực hiện ? Thực hiện ở đâu ? thời gian thực hiện ? và thực hiện bằng cách nào ? Việc tuyên truyền giải thích phải được thực hiện sâu rộng và hướng dẫn thực hiện thống nhất, nhất là đối với những quyết định bao hàm nhiều nội dung và phức tạp. Tiếp theo đó là khâu tổ chức thực hiện quyết định, kiểm tra thực hiện quyết định. Việc kiểm tra việc thực hiện quyết định phải được thường xuyên để kịp thời điều chỉnh quyết định cho phù hợp với tình hình thực tế nhằm đạt hiệu quả cao nhất. Khâu cuối cùng là việc tiến hành tổng kết, đánh giá kết quả thực hiện quyết định : tìm ra những sai lệch, nguyên nhân sai lệch ấy, phát hiện những  nguồn lực chưa khai thác, sử dụng hiệu quả để rút ra bài học kinh nghiệm cho công tác quản lý ngày càng tốt hơn, hoàn thiện hơn.
Tóm lại, vấn đề ra quyết định quản lý và tổ chức thực hiện quyết định là một quá trình không hề đơn giản, nó bao gồm nhiều bước phức tạp và gắn với nó là sự sáng tạo, nhạy bén của tư duy nhà lãnh đạo quản lý trên cơ sở thực tiển kết hợp với các phương pháp khoa học và các quy luật khách quan
* Liên hệ phân tích một quyết định cụ thể . Trong thực tiễn cho thấy có những quyết định quản lý khi ban hành được triển khai rộng rãi và được rất nhiều người đồng tình ủng hộ, tham gia thực hiện nhưng cũng có những quyết định quản lý rất khó tổ chức triển khai thực hiện. Đặc biệt là trong lĩnh vực đất đai, vốn là những vấn đề rất nhạy cảm trong quần chúng nhân dân. Pháp luật nói chung và pháp luật đất đai nói riêng đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế tập trung quan liêu, bao cấp sang nền kinh tế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, quá trình này cũng là quá trình đổi mới, quá trình hoàn thiện pháp luật để thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế xã hội. Sự phát triển của pháp luật với sự phát triển của thực tế trong giai đoạn này không phải lúc nào cũng đạt được sự đồng bộ nhất nhất mà có lúc, có nơi còn có những khoảng cách mà Nhà nước đã và đang cố gắng khắc phục tình trạng này.
  Lấy ví dụ như việc ban hành Nghị định 60/NĐ-CP  của Chính phủ ngày 5/7/1994 về việc Quyền sử dụng nhà ở và Quyền sử dụng đất ở tại đô thị. Nội dung chính của Nghị định này là nhà nước quy định đối với nhà và đất ở thuộc khu vực đô thị thì chủ sở hữu nhà và chủ sử dụng đất  sẽ được cấp 1 giấy chứng nhận trên đó có cả 2 quyền : quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở. Đây là một quyết định hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức. Tuy nhiên, về tính khoa học, tính linh hoạt, tính hiệu quả, tính toàn diện và tính khả thi của quyết định có rất nhiều vấn đề cần phải xem xét
Về tính khoa học và tính thống nhất, quyết định này có nhiều yếu tố phù hợp với mục tiêu mà chính phủ và cả người dân mong  muốn : đó là nhằm quản lý chặt chẽ hơn tình hình đất đai - nhà ở tại đô thị, tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực hiện các chính sách đền bù, giải toả, quy hoạch, chỉnh trang đô thị cũng như các quan hệ giao dịch khác của người dân (thế chấp, chuyển nhượng ...). Rõ ràng việc gắn cả 2 quyền này vào cùng một giấy chứng nhận sẽ thuận tiện hơn cho người dân khi thực hiện các quyền (chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp, bảo lãnh, góp vốn ...) và cũng phù hợp xu thế hình thành một  thị trường bất động sản ở nước ta. Tuy nhiên bản thân của 2 quyền này có những điểm khác nhau rất cơ bản : đó là đối với quyền sở hữu nhà thì người chủ sở hữu có thể toàn quyền định đoạt tài sản của mình, họ có thể thế chấp, chuyển nhượng, thừa kế phần tài sản này cho bất cứ đối tượng nào mà pháp luật không cấm, tuy nhiên về quyền sử dụng đất đai thì khác, quyền của người sử dụng đất sẽ có những giới hạn nhất định, do đó có những trường hợp có thể pháp luật về nhà ở, dân sự không cấm nhưng đối với pháp luật đất đai thì không được phép chuyển nhượng, thừa kế, thế chấp... Mặt khác, nội dung của Nghị định còn giao cho cả 2 ngành Xây dựng và Địa chính trong phạm vi chức năng của mình tổ chức thực hiện, mỗi ngành với nhân lực và nội dung quản lý riêng nên ban hành hướng dẫn lại chưa thống nhất. Do đó, Nghị định này còn hạn chế về tính khoa học và tính thống nhất.
Về tính khả thi, tính toàn diện và tính linh hoạt thì thực tế cho thấy rằng phương án tổ chức thực hiện mà Nghị định đưa ra là phải có sự phối hợp của cả hai cơ quan xây dựng và địa chính cùng thực hiện, quản lý hồ sơ lưu và bản lưu giấy chứng nhận cũng ở cả hai đơn vị, điều này trên thực tế gây rất nhiều phiền hà cho người dân vì khi có thay đổi nội dung trên giấy chứng nhận thì phải đến cả 2 cơ quan để xác nhận. Mặt khác, do mỗi cơ quan chức năng quản lý khác nhau nên cơ quan nào cũng muốn giấy chứng nhận phải thể hiện đầy đủ những thông tin mình cần quản lý, điều đó càng làm cho quy trình thực hiện khó khăn hơn nhiều. Lực lượng thực hiện của 2 bên cũng không đồng nhất nên cùng một nhà và đất ấy phải đo vẽ nhà đất 2 lần. Ngoài ra, có rất nhiều hồ sơ nhà đất chưa đủ điều kiện cấp giấy nên để được hợp thức hóa cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu nhà ở và quyền sử dụng đất ở thì người dân phải cùng một lúc phải nộp một khoản tiền khá lớn vừa nhà, vừa đất. Bên cạnh đó, trong quá trình sử dụng có khi chủ nhà hợp pháp về đất nhưng do nhà xây dựng lấn chiếm không gian hoặc xây dựng trái phép và không phù hợp với quy hoạch nên không được cấp quyền sở hữu nhà, do đó người chủ nhà này cũng không được cấp GCN. Từ những vướng mắc trên cho thấy rằng tính khả thi và tính toàn diện của Nghị định là rất thấp và sau 10 năm ban hành cả nước cũng chỉ mới cấp được không quá 50% số trường hợp phải cấp, không thỏa mãn những mục tiêu đã đề ra cũng như không đáp ứng được những vấn đề mà thực tế diễn ra.
 Ví dụ thứ 2 là việc ban hành Quyết định 19/2000/NĐ-CP  của Thủ tướng Chính phủ ngày 03/02/2000 về việc bãi bỏ các loại giấy phép trái quy định của Luật doanh nghiệp. Nội dung chính của quyết định là bãi bỏ các loại giấy phép kinh doanh, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, giấy phép hành nghề, chứng chỉ hành nghề và giấy phép dưới hình thức khác  trái với Luật doanh nghiệp, kể cả những loại giấy phép kinh doanh khác do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, cơ quan thuộc Chính phủ và do ủy ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương ban hành mà không căn cứ vào luật, pháp lệnh, nghị định, nhưng chưa được liệt kê vào Danh mục kèm theo Quyết định 19. Đối với điều kiện kinh doanh xét thấy cần thiết phải có giấy phép thì các cơ quan hữu quan phải trình Chính phủ ban hành nghị định để thực hiện đúng quy định tại Điều 6 Luật Doanh nghiệp.
    Đây là quyết định ban hành hợp pháp do được ban hành đúng thẩm quyền, đúng thể thức. Quyết định này cũng mang tính khoa học và mang tính hiệu quả cao bởi vì nó phù hợp với xu hướng cải cách hành chính, giảm bớt những thủ tục phiền hà và gây trở ngại cho doanh nghiệp, nhờ đó có tác động tích cực thúc đẩy sự tăng trưởng phát triển kinh tế. Quyết định này mang tính toàn diện vì những vấn đề mà quyết định nêu bao hàm rất nhiều ngành, (khoa học công nghệ, môi trường, Thương mại, hải quan, Thủy sản, tài chính, công nghiệp, bưu điện, du lịch, y tế, lao động – thương binh xã  hội, văn hóa thông tin, giao thông vận tải, xây dựng, nông nghiệp, kế hoạch đầu tư ...). Quyết định nàu cũng mang tính linh hoạt vì nội dung của quyết định còn bao hàm cả những trường hợp  mà quyết định chưa xác định kịp nhưng dự đoán sẽ có xảy ra trong thực tế. Quyết định này cũng mang tính khả thi cao vì phù hợp với nguyện vọng của đối tượng chịu tác động (các doanh nghiệp) cũng như của những nhà quản lý có đạo đức nghề nghiệp.  Quyết định này cũng thống nhất với nội dung của Luật doanh nghiệp và chủ trương cải cách hành chính của Đảng và nhà nước ta




I- YÊU CẦU
- Nghiên cứu, quán triệt sâu sắc các quan điểm chỉ đạo, mục tiêu, nhiệm vụ và giải pháp được đề ra trong Nghị quyết của Bộ Chính trị nhằm tạo sự chuyển biến mạnh mẽ về nhận thức và tổ chức thực hiện của các cấp uỷ đảng, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các tổ chức chính trị - xã hội, cán bộ, đảng viên và nhân dân đối với công tác thể dục, thể thao.
- Việc triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị phải được tiến hành thường xuyên, thông qua các chương trình hoặc kế hoạch hành động cụ thể, thiết thực, phù hợp với điều kiện cụ thể của từng sở, ban, ngành, mặt trận tổ  quốc và các đoàn thể ở từng địa phương, cơ sở nhằm tạo “nền tảng phát triển mạnh mẽ và vững chắc sự nghiệp thể dục, thể thao”.
3- Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, định kỳ đánh giá, sơ tổng kết việc thực hiện Nghị quyết ở các cấp uỷ đảng, ban cán sự đảng, đảng đoàn Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tỉnh và các đoàn thể chính trị - xã hội để rút kinh nghiệm, phát hiện và giải quyết kịp thời những vấn đề mới phát sinh.
II- NỘI DUNG VÀ PHƯƠNG PHÁP TIẾN HÀNH
1. Các cấp ủy, tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị; Mặt trận Tổ quốc, đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức phổ biến, quán triệt đến từng cán bộ đảng viên và nhân dân với các hình thức phù hợp từng địa phương, đơn vị
a)- Ban thường vụ cấp uỷ huyện và tương đương tổ chức hội nghị triển khai, quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI cho cán bộ chủ chốt do cấp mình quản lý.
Thời hoàn thành trước 15 tháng 5 năm 2012.
b)- Đối với cán bộ, đảng viên và công chức, viên chức:
Đảng bộ, chi bộ cơ sở, thủ trưởng đơn vị triển khai, quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI cho đảng viên, cán bộ công chức, viên chức thuộc đơn vị mình vào kỳ sinh hoạt chi bộ, cơ quan.
Thời gian: hoàn thành trước 15 tháng 6 năm 2012.
c)- Đối với thành viên Mặt trận Tổ quốc và đoàn viên, hội viên các đoàn thể chính trị xã hội xã, phường, thị trấn:
Cấp uỷ chỉ đạo Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội tổ chức học tập quán triệt Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI kết hợp lồng ghép vào các kỳ sinh hoạt chi hội, tổ hội.
d)- Các cơ quan thông tin đại chúng trong Tỉnh có kế hoạch tuyên truyền, phổ biến Nghị quyết của Bộ Chính trị, tạo sự chuyển biến sâu sắc về nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội đối với công tác thể dục, thể thao; cổ vũ động viên các tập thể và cá nhân đạt thành tích xuất sắc trong các hoạt động thể dục, thể thao.
2- Về xây dựng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI
-  Ban cán sự đảng Uỷ ban nhân dân Tỉnh giúp Ban Thường vụ Tỉnh uỷ xây dựng Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI “về tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, tạo bước phát triển mạnh mẽ về thể dục, thể thao đến năm 2020”.
- Các huyện uỷ, thị uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ cụ thể hoá bằng chương trình hành động, kế hoạch thực hiện Nghị quyết số 08-NQ/TW của Bộ Chính trị khoá XI, tập trung vào những nội dung chủ yếu sau:
Một là, phát triển phong trào thể dục thể thao quần chúng, nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác giáo dục thể chất và thể thao trong trường học.
Tiếp tục triển khai phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” với những hình thức thiết thực, nhằm tăng thêm số lượng người tập thể dục thể thao thường xuyên và chất lượng, hiệu quả của phong trào.
Xây dựng và triển khai đề án phát triển giáo dục thể chất và thể thao trường học trên địa bàn.
Triển khai các biện pháp đẩy mạnh phong trào thể dục thể thao trong lực lượng vũ trang, công chức, viên chức, nông dân, phụ nữ, thanh niên, thiếu niên, người cao tuổi, người lao động trong các khu công nghiệp… Tùy theo đặc điểm từng địa phương, cần đặc biệt quan tâm phát triển thể dục thể thao ở vùng sâu, vùng xa, biên giới.
Chỉ đạo hình thành mới hoặc kiện toàn các thiết chế thể dục thể thao, như các câu lạc bộ thể dục thể thao, các điểm tập luyện trong cộng đồng dân cư, cùng với việc xây dựng đội ngũ cán bộ, hướng dẫn viên thể dục thể thao ở cơ sở.
Quy hoạch và dành đất cho hoạt động thể dục thể thao; bố trí sân tập, các không gian dành cho hoạt động thể dục thể thao, trang thiết bị tập luyện; khuyến khích, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp, tư nhân tham gia đầu tư, cung ứng các dịch vụ thể dục thể thao, đáp ứng nhu cầu luyện tập của nhân dân.
Hai là, mở rộng và nâng cao hiệu quả công tác đào tạo tài năng thể thao, phát triển thể thao thành tích cao trên từng địa bàn.
Ba là, đổi mới tổ chức, quản lý, nâng cao hiệu quả quản lý của nhà nước trong lĩnh vực thể dục thể thao; phát triển nguồn nhân lực trong lĩnh vực thể dục thể thao.
Bốn là, tăng cường sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ đảng, chính quyền. Đưa các mục tiêu, nhiệm vụ về phát triển thể dục, thể thao vào văn kiện của đại hội Đảng các cấp, các chiến lược, chính sách phát triển kinh tế - xã hội của địa phương; huy động cộng đồng tham gia tích cực vào các hoạt động phát triển thể dục, thể thao. Đặc biệt quan tâm công tác kiểm tra, đánh giá việc thực hiện Nghị quyết của Bộ chính trị.
4- Về kiểm tra, đánh giá thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị
Các cấp uỷ đảng có kế hoạch chỉ đạo việc kiểm tra, đánh giá định kỳ hoặc đột xuất; sơ kết, tổng kết việc thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị, báo cáo cấp ủy cấp trên. Việc kiểm tra, đánh giá cần được đổi mới cả về nội dung, phương pháp và hình thức tiến hành; coi trọng việc phát hiện, nhân rộng những nhân tố mới, mô hình điển hình trong quá trình triển khai thực hiện Nghị quyết của Bộ Chính trị.
III- TỔ CHỨC THỰC HIỆN
- Ban tuyên giáo huyện uỷ, thị uỷ, thành uỷ, ban tuyên giáo (tuyên huấn) các đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ tham mưu ban thường vụ cấp uỷ chỉ đạo các cơ quan liên xây dựng Chương trình hành động và Kế hoạch thực hiện Nghị quyết của ban thường cấp uỷ cùng cấp; chỉ đạo, hướng dẫn việc học tập, quán triệt Nghị quyết; chỉ đạo và triển khai thực hiện theo đúng thời gian quy định.
- Đảng đoàn Uỷ ban Mặt trận Tổ quốc Việt Nam Tỉnh và các đoàn thể chính trị-  xã hội Tỉnh: xây dựng kế hoạch tuyên truyền, vận động và tổ chức phát động phong trào “Toàn dân rèn luyện thân thể theo gương Bác Hồ vĩ đại” với những hình thức thiết thực, nhằm tăng thêm số lượng người tập thể dục thể thao thường xuyên và chất lượng, hiệu quả của phong trào.
- Sau khi kết thúc đợt học tập ở từng cấp, ban tuyên giáo các huyện uỷ, thị uỷ, thành uỷ, ban tuyên giáo (tuyên huấn) các đảng uỷ trực thuộc Tỉnh uỷ báo cáo kết quả về Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ để  tổng hợp, báo cáo về Ban Thường vụ Tỉnh uỷ và Ban Tuyên giáo Trung ương.



0 nhận xét:

Đăng nhận xét