Đề 2. Đồng
chí hãy phân tích những thành tựu to lớn và bài học kinh nghiệm chủ yếu qua 20
năm thực hiện Cương Lĩnh 1991 trên đất nước ta được Đại hội đại biểu toàn quốc
lần thứ XI của Đảng tổng kết.
Nhấn vào đây để tải về: http://upfile.vn/ioXr
2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã
hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các
tầng lớp nhân dân được cải thiện
4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố; Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu
lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên.
5. Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực
- 1. Kinh
tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ
tiêu không đạt kế hoạch
2. Các
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, môi
trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội
3. Các
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế
4. Dân chủ
và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ
5. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh
tế và quản lý đất nước. Công tác xây dựng Đảng còn nhiều
hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục;
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đã rút ra một số kinh nghiệm
sau đây:
Cương
lĩnh năm 1991 (được Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng thông qua)
ra đời trong một hoàn cảnh đặc biệt, khi đổi mới ở nước ta vừa mới bắt đầu, chủ
nghĩa xã hội hiện thực trên thế giới, trong đó có nước ta lâm vào một cuộc
khủng hoảng trầm trọng. Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu sụp đổ, hệ
thống xã hội chủ nghĩa thế giới tan rã. Các thế lực đế quốc chủ nghĩa và chống
cộng ra sức phá hoại phong trào cách mạng, mưu toan xoá bỏ chủ nghĩa xã hội.
Trong tình huống hiểm nghèo đó, Đảng ta với kinh nghiệm đã tích lũy trong đấu
tranh và thử thách, với bản lĩnh kiên định của một Đảng cách mạng đã kịp thời
có những quyết định chính trị sáng suốt. Cương lĩnh ra đời như một tuyên bố
chính trị của Đảng, khẳng định con đường phát triển của nước ta, Đó là con
đường xã hội chủ nghĩa.
Tại
đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Đảng ta đã đánh giá, tổng kết qua 20 năm
thực hiện cương lĩnh của Đảng, trong đó khẳng định: Với 20 năm thực hiện Cương
lĩnh, đất nước, con người, dân tộc và xã hội Việt Nam đã đổi thay nhanh chóng,
vững bước tới phát triển bền vững và hiện đại hoá.
Những
thành tựu đạt được trong 20 năm thực hiện Cương lĩnh là to lớn và có ý nghĩa
lịch sử. Những thành tựu đó là:
1. Về kinh tế:
Đã đưa nước ta ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, kinh tế
tăng trưởng nhanh, cơ sở vật chất được tăng cường, đời sống của các tầng lớp
nhân dân không ngừng được cải thiện; GDP tăng bình quân hàng năm 1991-1995 là
8,2%, 1996-2000 là 7%, 2001-2005 là 7,5%, 2006-2010 là 7%. Cơ cấu kinh tế có sự
chuyển dịch đáng kể, nguồn lực phát triển kinh tế được huy động khá hơn (ví dụ
như kinh tế tư nhân phát triển ); nhiều lợi thế từng ngành, từng vùng được phát
huy, năng lực cạnh tranh chuyển biến tích cực; đời sống các tầng lớn nhân dân
được cải thiện, tỷ lệ đói nghèo giảm từ 58% năm 1993 xuống còn 17,5% năm 2001,
14,8% năm 2007 và còn 9,5% năm 2010.
Thực hiện có hiệu quả chính sách phát triển kinh tế nhiều
thành phần. Đổi mới cơ chế, đổi mới chính sách đối với doanh nghiệp nhà nước.
Kinh tê nhà nước đổi mới theo hướng xóa bao cấp, lập công ty, tự chủ, tự chị
trách nhiệm trong kinh doanh; Tập trung chỉ đạo xắp xếp, đổi mới nâng cao chất
lượng hiệu quả của kinh tế nhà nước. Từ 2001- 2011, qua xắp xếp cơ cấu đã giảm
từ 5.700 DN xuống còn 1.300 DN, năm 2007-2011 cổ phần hóa 390 DN nhà nước, qua
đó số doanh nghiệp nhà nước giảm đi nhưng hoạt động có hiệu quả hơn, đóng góp
39% GDP, 50% cổ phần ngân sách nhà nước.
Kinh tế tập thể trong đó HTX là nòng cốt đổi mới từng bước
theo Luật HTX cùng nhiều chính sách của Đảng, nhà nước. Số lượng tuy có giảm
nhưng nhờ đổi mới cơ chế nên đã đảm bảo được hoạt động và có chất lượng. Tuy
nhiên thực tế ở địa phương vẫn còn nhiều HTX tồn tại hình thức, chủ yếu là HTX
nông nghiệp.
Kinh tế tư
nhân ngày càng phát huy các nguồn lực và tiềm năng trong nhân dân, nhất là từ
khi Luật doanh nghiệp 2005 tra đời,
đóng góp lớn nhất là tạo việc làm và góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế. Đóng
góp vào tăng trưởng GDP của doanh nghiệp
tư nhân tăng từ 45% (Giai đoạn 2001-2005) lên 54% (2006-2010). Sau 5 năm (2006-2010), DNTN giải qyết 2,6 triệu
việc làm, DN vừa và nhỏ thu hút 49% lao động phi nông nghiệp ở nông thôn
Kinh tế đầu
tư nước ngoài cũng có bước phát triển quan trọng, từ khi có Luật đầu tư nước
ngoài, Việt Nam đã thu hút được 14.550 dự án FDI còn hiệu lực, tổng vốn đăng ký
lên tới 211 tỷ USD và đến nay đã có hơn 100 tỷ USD được đầu tư vào việt nam.
Tỉnh phú Yên ta cũng có bước phát triển quan trọng trong lĩnh vực này, đánh dấu
bằng việc ký hợp đồng xay dựng nhà máy lọc dầu Vũng Rô với nhà thầu Nhật Bản.
Công trình có giá trị 3,1 tỷ USD, công suất 8 triệu tấn/năm.
Thể chế kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa dần được hình thành như: Thị trường
hàng hóa dịch vụ, tài chính tiền tệ, sức lao động, bất động sản, hoặc thi
trường khoa học công nghệ với sự ra đời của các Luật, Pháp lệnh như: Luật DN,
Pháp lệnh hợp đồng kinh tế; Luật dân sự, Luật thương mại, Luật đầu tư nước
ngoài…, thể chế hóa về cơ chế đất đai, tín dụng, thuế.
Nhà nước dần
tác cơ chế quản lý ra khỏi cơ chế kinh doanh, chuyển từ quản lý cụ thể sang
quản lý tổng thể nền kinh tế quốc dân, chuyển từ quản lý trực tiếp sang quản lý
gián tiếp thông qua Luật, cơ chế chính sách, kế hoạch…
Cơ cấu kinh
tế ngành, vùng có sự chuyển biến tích cực theo hướng CNH, HĐH như cơ cấu ngành
công nghiệp xây dựng từ năm 1998 đến nay tăng liên tục; từ không khai thác dầu
đến nay hàng triệu tấn, công nghiệp xuất khẩu ngày càng tăng…
Tỷ trọng
nông nghiệp trong GDP giảm dần: năm 1988 là 63%, năm 2005 còn 20,5%. Trong nông
nghiệp, an ninh lương thực được đảm bảo, cơ cấu cây trồng được chuyển dịch sang
các cây trồng mang lại hiệu quả cao như sắn, mía, cà phê, cao su, ca cao…
Các ngành dịch
vụ phát triển đa dạng hơn; bưu chính, viễn thông, du lịch phát triển nhanh; cơ
cấu vùng kinh tế có sự chuyển dịch, các vùng khó khăn, vùng đân tộc, vùng núi,
vùng sâu vùng xa được hỗ trợ kịp thời góp phần thức đẩy phát triển kinh tế, bộ
mặt nông thôn ngày càng khởi sắc
Trong cơ cấu
lao động: Chuyển dịch từ giảm tỷ lệ lao động thuần nông, tăng lao động dịch vụ.
Năm 1990, lao động Lâm ngư nghiệp chiếm 73,2% thì năm 2010 còn 48%.
Đạt được nhiều
kết quả tích cực trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, ký song phương với
Mỹ, xóa bỏ cấm vận, tham gia tổ chức hội nhập, liên kết toàn cầu (WTO), đến năm
2010, nước ta đã quan hệ với 200 nước và
vùng lãnh thổ.
2. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa và các lĩnh vực xã
hội có tiến bộ, bảo vệ tài nguyên, môi trường được chú trọng hơn; đời sống các
tầng lớp nhân dân được cải thiện
Sự ngiệp
giáo dục phát triển về qui mô, đa dạng hóa các trường lớp từ mầm non đến đại
học. Đến năm 2010, nước ta đã đạt chuẩn phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Tỉ lệ
lao động qua đào tạo tăng, năm 2010 đạt 40% tổng số lao động đang làm việc.
Hoạt động nghiên cứu, ứng dụng tiến bộ khoa
học, công nghệ được đẩy mạnh, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Đầu tư cho khoa học, công nghệ được nâng lên.
Giải
quyết việc làm, xóa đói, giảm nghèo, thực hiện chính sách với người và gia đình
có công, chính sách an sinh xã hội đạt kết quả tích cực. Từ năm 2001 đến 2011,
bình quân mỗi năm giải quyết việc làm cho 1,6 triệu lao động. Trong đến giai
đoạn 2006-2010, đã giải quyết được việc làm cho trên 8 triệu lao động, tỉ lệ
thất nghiệp ở thành thị giảm còn dưới 4,5%, tỉ lệ hộ nghèo giảm còn 9,5%. Công
tác dân số, kế hoạch hoá gia đình, chăm sóc và bảo vệ sức khỏe nhân dân, bình
đẳng giới và tiến bộ của phụ nữ đạt được một số kết quả quan trọng; mức hưởng
thụ các dịch vụ y tế của nhân dân tăng lên, đặc biệt với trẻ em, người nghèo,
đồng bào dân tộc thiểu số. Chỉ số phát triển con người không ngừng tăng lên; Tuổi
thọ trung bình tăng từ 67,8 (năm 2000) lên 73,2 (năm 2010). Việt Nam đã
hoàn thành phần lớn các Mục tiêu Thiên niên kỷ.(3)
Hoạt
động văn hóa, văn nghệ, thông tin, thể dục, thể thao ngày càng mở rộng, từng
bước đáp ứng nhu cầu hưởng thụ văn hóa ngày càng cao của nhân dân. Phong trào
“Toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa” từng bước đi vào chiều sâu.
Độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn
vẹn lãnh thổ, chế độ xã hội chủ nghĩa, an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã
hội được giữ vững. Quan hệ đối ngoại được mở rộng và ngày càng đi vào chiều
sâu, góp phần tạo ra thế và lực mới của đất nước.
4. Dân chủ xã hội chủ nghĩa có tiến bộ, sức mạnh đại đoàn kết toàn dân
tộc được củng cố; Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa được đẩy mạnh, hiệu
lực và hiệu quả hoạt động được nâng lên.
Dân chủ trong Đảng, trong các tổ chức và xã hội được mở
rộng, nâng cao; quyền làm chủ của nhân dân được phát huy tốt hơn.
Khối đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân
với giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức dưới sự lãnh đạo của Đảng tiếp tục
được mở rộng và tăng cường trên cơ sở thống nhất về mục tiêu dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn
thể nhân dân phát huy tốt hơn vai trò tập hợp, xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân tộc;
Quốc
hội tiếp tục được kiện toàn về tổ chức, có nhiều đổi mới, nâng cao chất lượng
hoạt động. Hệ thống pháp luật được bổ sung.
Việc thực
hiện công tác phòng, chống tham nhũng, lãng phí và Luật Phòng, chống tham
nhũng, Luật Thực hành tiết kiệm, chống lãng phí được chỉ đạo tích cực, đạt một
số kết quả. Nhiều vụ án tham nhũng được đưa ra xét xử. Trên một số lĩnh vực,
lãng phí, tham nhũng từng bước được kiềm chế.
5. Công tác xây dựng, chỉnh
đốn Đảng được tăng cường, đạt một số kết quả tích cực
Phương thức
lãnh đạo của Đảng không ngừng được đổi mới, vừa bảo đảm sự lãnh đạo của Đảng,
vừa phát huy tốt hơn tính chủ động, sáng tạo của các tổ chức trong hệ thống
chính trị. Việc mở rộng, phát huy dân chủ trong Đảng được chú trọng; Phong
cách, lề lối làm việc của các cơ quan lãnh đạo Đảng từ trung ương đến cơ sở
tiếp tục được cải tiến theo hướng sâu sát cơ sở, gần gũi nhân dân, tăng cường
đôn đốc, kiểm tra, giám sát. Đa số cán bộ, đảng viên và nhân dân phấn khởi, tin
tưởng vào Đảng, Nhà nước, vào công cuộc đổi mới và triển vọng phát triển của
đất nước. Tư tưởng tích cực vẫn là xu hướng chủ đạo trong đời sống xã hội.
6. Thành tựu về phát triển nhận thức
lý luạn, tổng kết thực tiễn.
Quá trình
đổi mới là quá trình đẩy mạnh nghiên cứu lý luận và tổng kết thực tiễn. Nhận
thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ngày càng sáng tỏ
hơn; Hệ thống quan điểm lý luận về công tác đổi mới, về xã hội, xã hội CN và
con đường đi lên CNXH ở VN đã hình thành những nét cơ bản. Đã sáng tỏ hơn về
thời kỳ quá độ với nhiều chặng đường, bước đi, nhiều thành phàn kinh tế và chế
độ sở hữu, với sự vận động của nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sáng tỏ
hơn về bỏ qua chế độ tư bản tiến thẳng lên CNXH; sáng tỏ hơn về những giải
pháp, hình thức, bước đi để thực hiện mục tiêu và mô hình xã hội xã hội chủ
nghĩa mà Đại hội X, XI đã tổng kết trên cơ sở cương lĩnh của Đảng năm 1991.
Những thành tựu trên đã được khẳng
định bằng thực tế, đồng thời Đảng ta nêu rõ những hạn chế, khuyết điểm, đó là:
- 1. Kinh
tế phát triển chưa bền vững; chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh thấp, chưa
tương xứng với tiềm năng, cơ hội và yêu cầu phát triển của đất nước; một số chỉ
tiêu không đạt kế hoạch
2. Các
lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, môi
trường còn nhiều hạn chế, yếu kém, gây bức xúc xã hội
3. Các
lĩnh vực quốc phòng, an ninh, đối ngoại còn một số mặt hạn chế
4. Dân chủ
và sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc chưa được phát huy đầy đủ
5. Xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa chưa theo kịp yêu cầu phát triển kinh
tế và quản lý đất nước. Công tác xây dựng Đảng còn nhiều
hạn chế, yếu kém, chậm được khắc phục;
6. Lý luận chưa giải đáp được một số vấn đề của thực tiễn đổi
mới và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, đặc biệt là trong các mối quan hệ
của tăng trưởng kinh tế với thực hiện công bằng xã hội, giữa đổi mới kinh tế
với đổi mới chính trị, giữa đổi mới với ổn định và phát triển, giữa độc lập tự
chủ và tích cực hội nhập quốc tế
Từ thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo thực hiện Nghị quyết Đại hội XI, đã rút ra một số kinh nghiệm
sau đây:
Một là, trong bất kỳ điều kiện và tình huống nào, phải
kiên trì thực hiện đường lối và mục tiêu đổi mới, kiên định và vận dụng sáng
tạo, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đổi mới toàn diện, đồng bộ với những bước
đi thích hợp. Tích cực, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế phải gắn với chú
trọng xây dựng nền kinh tế độc lập, tự chủ, giữ vững truyền thống và bản sắc
văn hoá dân tộc. Mở
rộng, phát huy dân chủ phải gắn với tăng cường kỷ luật, kỷ cương và ý thức
trách nhiệm của mỗi công dân, cơ quan, đơn vị, doanh nghiệp và cả cộng đồng.
Hai là, phải
thực sự coi trọng chất lượng, hiệu quả tăng trưởng và phát triển bền vững, nâng
cao chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế, đồng thời duy trì tốc độ tăng
trưởng hợp lý, giữ vững ổn định kinh tế vĩ mô. Tăng cường huy động các nguồn
lực trong và ngoài nước, sử dụng tiết kiệm và hiệu quả các nguồn lực để đẩy
nhanh tốc độ phát triển kinh tế. Phát triển lực lượng sản xuất phải đồng thời
xây dựng, hoàn thiện quan hệ sản xuất phù hợp; củng cố và tăng cường các yếu tố
bảo đảm định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế.
Ba là, phải
coi trọng việc kết hợp chặt chẽ giữa tăng trưởng kinh tế với thực hiện tiến bộ
và công bằng xã hội; bảo đảm an sinh xã hội, chăm lo đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân, nhất là đối với người nghèo, đồng bào ở vùng sâu, vùng xa,
đặc biệt là trong tình hình kinh tế khó khăn, suy giảm; gắn phát triển kinh tế
với phát triển văn hóa, củng cố quốc phòng, an ninh, tăng cường quan hệ đối
ngoại, thực hiện tốt hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn
là, đặc biệt chăm lo củng cố, xây dựng Đảng cả về chính trị, tư tưởng và tổ
chức. Thật sự phát huy dân chủ, giữ vững nguyên tắc, kỷ luật, kỷ cương, đoàn
kết thống nhất, gắn bó mật thiết với nhân dân, tôn trọng và phát huy quyền làm
chủ của nhân dân, dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng. Xây dựng đội ngũ cán bộ,
đảng viên vững vàng về chính trị, tư tưởng, trong sáng về đạo đức, lối sống, có
sức chiến đấu cao, thành thạo về chuyên môn, nghiệp vụ; phát huy hiệu lực, hiệu
quả quản lý của Nhà nước, tính tích cực, chủ động, sáng tạo của Mặt trận Tổ
quốc và các đoàn thể nhân dân.
Năm
là, trong công tác lãnh đạo và chỉ đạo phải rất nhạy bén, kiên quyết, sáng tạo,
bám sát thực tiễn đất nước; chú trọng công tác dự báo, kịp thời đề ra các giải
pháp phù hợp với tình hình mới; tăng cường công tác tuyên truyền, tạo sự đồng
thuận cao, phát huy sức mạnh của cả hệ thống chính trị, của toàn xã hội.
Liên hệ dịa
phương:
Huyện miền núi Sông Hinh mới được thành lập năm 1985. Trong
giai đoạn đầu, nơi đây là vùng đất hoang sơ, chủ yếu là rừng núi, cỏ tranh, người
ở thưa thớt, đường xá đi lại khó khăn, chủ yếu đường đất, đồi dốc, mùa nắng bụi
mù, mùa mưa lầy lội, cơ sở vật chất trường, trạm, hầu như không có; điều kiện
làm việc của cán bộ vô vàn khó khăn, đời sống nhân dân cực khổ, đói cơm, lạt
muối, quanh năm chỉ có sắn, bắp và lúa rẫy. Qua 20 năm thực hiện Cương lĩnh của
Đảng, đến nay, bộ mặt huyện nhà đã có nhiều đổi thay. Hiện toàn huyện có 11 xã,
thị trấn, 82 thôn buôn, khu phố, trong đó có 12 dân tộc thiểu số anh em đang
sinh sống, chiếm 46,17% dân số toàn huyện.
Trên lĩnh vực nông,
lâm nghiệp, đã hình thành được các vùng chuyên canh cây lương thực, các vùng
trồng cây công nghiệp gắn với các nhà máy chế biến, đồng thời phát triển chăn
nuôi bò đàn. Đưa tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất nên năng suất, chất
lượng cây trồng, vật nuôi đạt khá cao. Đến nay, tổng diện tích gieo trồng là
18.019ha, tăng 7,3% so với năm 2004, trong đó lúa nước tăng 12,14%, sản lượng
lương thực hàng năm đạt từ 13.000 tấn đến 13.763 tấn. Bên cạnh đó, việc hình
thành vùng nguyên liệu cho các nhà máy cũng được quan tâm. Với hơn 9..000ha đất
trồng sắn, năng suất bình quân 18 tấn/ha, 3.000ha trồng mía, năng suất bình
quân đạt 60 tấn/ha hiện nay đã cung cấp đủ nguyên liệu cho các nhà máy trên địa
bàn. Tổng đàn bò của huyện hiện nay là 45.000 con, tỷ lệ bò lai đạt 29% tổng
đàn. Việc cơ giới hóa trong khâu làm đất được nhân dân chú trọng đầu tư máy
cày, máy kéo để phục vụ sản xuất.
Kết cấu hạ tầng được chú trọng đầu tư, 100% xã có đường nhựa
đến trung tâm. Đến nay, 100% xã có điện lưới quốc gia, với tỷ lệ hộ sử dụng
điện đạt 95%. Đầu tư nâng cấp Đài truyền thanh - truyền hình, 10 trạm truyền
thanh xã và 100% thôn buôn có các cụm loa truyền thanh.
Công tác giáo dục - đào tạo ngày càng đi vào chiều sâu. Tỷ lệ
học sinh ở độ tuổi lớp 1 năm học 2009-2010 đạt 99%. Huyện được công nhận hoàn
thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở và 8 xã đạt chuẩn quốc gia về phổ cập
giáo dục tiểu học đúng độ tuổi.. Công tác chăm sóc sức khỏe cho đồng bào dân
tộc thiểu số được chú trọng đặc biệt, đã cấp thẻ BHYT cho 53.500 lượt người
nghèo và 100% đối tượng ở các xã ĐBKK. Trạm y tế được xây dựng kiên cố, 100%
thôn, buôn có cán bộ y tế, có 2 xã đạt chuẩn quốc gia về y tế, 6 xã xây dựng xã
đạt chuẩn phù hợp với trẻ em, trong đó có 1 xã đạt chuẩn.
Thực hiện chính sách tín dụng ưu đãi cho hộ nghèo, qua 4 năm
đã có 6.113 lượt hộ nghèo được vay vốn, với tổng doanh số cho vay là 66 tỷ
đồng. Thực hiện chương trình xóa nhà ở tạm cho hộ nghèo, từ năm 2004 đến nay đã
xóa 465 nhà ở tạm. Công tác bảo tồn và phát huy bản sắc văn hóa các dân tộc
được chú trọng, việc bảo tồn tiếng nói và chữ viết được quan tâm, đã tổ chức
nhiều lớp dạy tiếng Ê Đê cho cán bộ chủ chốt của huyện. Một số lễ hội truyền
thống của đồng bào dân tộc thiểu số được phục dựng để lưu giữ. Phong trào toàn
dân đoàn kết xây dựng đời sống văn hóa ở khu dân cư được triển khai rộng khắp,
đến nay, toàn huyện có 5.021 hộ gia đình, 35/82 thôn, buôn, khu phố đạt danh
hiệu văn hóa và 70% thôn, buôn, khu phố có nhà sinh hoạt cộng đồng.
TL: Sau hai mươi năm thực hiện cương lĩnh 1991 của Đảng, dân
tộc ta, đấtn ước ta đã đạt được những thành tựu vẻ vang, to lớn mang tính lịch
sử. Với sự kế thừa và phát triển những thành quả của các thời kỳ trước, sửa
chữa sai lầm, khuyết điểm yếu kém, Đảng dẫn dắt sự nghiệp xây dựng XHCN theo đường
lối đổi mới, sức mạnh của đất nước ta tăng lên cả về thế và lực, cùng với những
đổi thay sâu sắc ở địa phương, đó là cơ sở, là niềm tin để chúng ta đẩy mạnh
toàn diện công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa, làm cho
đất nước phát triển nhanh, bền vững trong thời kỳ sắp tới. . Là
một đảng viên ĐCS, một công dân VN tôi nhận thức rằng hơn lúc nào hết, bản thân
mình phải nỗ lực cố gắng, không ngừng học tập, nghiên cứu lý luận chủ nghĩa
Mác- Lê Nin, tư tưởng Hồ Chí Minh; học tập nâng cao trình độ chuyên môn, nghiệp
vụ; rèn luyện bản lĩnh chính trị, hoàn thành tốt các công việc được giao, sẵn
sàng nhận bất cứ nhiệm vụ gì khi được giao phó, góp phần nhỏ bé sức lực của
mình vào công cuộc đổi mới, thực hiện thành công sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội của Đảng ta, nhân dân ta.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét