NHỮNG MÂU THUẪN
NẢY SINH TRONG
QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNGTRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG VÀ ĐỘNG LỰC LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT
NAM HIỆN NAY
PHẠM NGỌC QUANG (*)
Trong bài viết này, tác giả đã tập trung phân tích những mâu
thuẫn nảy sinh trong quá trình nhận thức
và
vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực đi
lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện
nay; đồng thời chỉ ra những hạn chế đang còn tồn tại cả trong nhận thức lẫn trong thực tiễn, làm rõ
những nguyên nhân chủ quan và khách quan dẫn đến tình trạng đó. Trên cơ sở đó, tác giả nhấn mạnh rằng, công cuộc đổi mới toàn diện đất nước cần được tiếp tục
đẩy mạnh hơn nữa, song đổi mới phải dựa trên những nguyên tắc đúng đắn với những
hình
thức, biện pháp, bước đi
thích hợp. Đặc biệt, trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền, dân chủ hoá là giải pháp quan trọng nhất để nâng
cao hiệu quả hoạt động của Đảng.
Mâu thuẫn là xung lực nội tại của
mọi sự sống. Nhà triết học Hêghen đã nói như vậy. Điều đó cũng
hoàn toàn đúng khi nói đến quá trình nhận thức
và
vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
Liên quan tới vấn đề này, điều đầu tiên chúng tôi muốn nói là mâu thuẫn
của việc chúng ta nhận thức
và vận dụng triết học Mác - Lênin về sự phát triển xã hội cũng như con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Hồ Chí Minh đi từ chủ nghĩa yêu nước đến chủ nghĩa Mác - Lênin, từ đó, Người đưa lý luận cách mạng khoa học này vào Việt Nam. Việc tiếp nhận di sản tư tưởng – lý luận đó một cách tích cực, chủ động, sáng tạo đã dẫn tới sự
ra đời một đường lối cách
mạng đúng đắn, đưa công cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc
Mỹ đến thành công, xác lập nền dân chủ cộng hoà và đang từng bước quá độ lên chủ nghĩa xã hội trên
phạm vi cả nước, bỏ qua
chế độ tư bản chủ nghĩa.
Song, môi
trường tiếp nhận chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung,
triết học Mác - Lênin nói riêng, như đã nêu trên,
cũng
gây ra những hạn chế nhất định. Môi trường kinh tế – xã
hội
nảy sinh, phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin là nền kinh tế đại công
nghiệp và giai cấp công nhân phát triển tới trình độ tương đối thuần thục,
chủ nghĩa tư bản đã ra đời ở các nước đó; nền dân chủ tư sản,
văn hoá dân chủ tư
sản, pháp quyền tư sản đã được xác lập
và
vận hành tương đối có hiệu quả; người lao động
nói chung, công nhân nói riêng đã được rèn
luyện và trưởng thành trong môi
trường đó, trình độ văn hoá chung ít nhiều đã được nâng cao một cách đáng kể; sự giác ngộ mục
tiêu
đấu tranh ít nhiều đã dựa trên lý
trí khoa học… Từ đó, tạo ra cái “phông” để tiếp nhận, vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin một cách
có hiệu quả, ít phạm phải nguy
cơ ảo
tưởng – không tưởng, nôn nóng chủ quan muốn nhanh
chóng đi tới đích bằng
những cuộc tấn công
trực diện vào chủ nghĩa tư bản.
Đối với nước ta, hoàn cảnh kinh tế – xã hội khi tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin và cả trong một quá trình dài
vận
dụng lý luận đó
trong thời gian tiếp theo hoàn toàn chưa
phải
như vậy. Kinh tế sản xuất nhỏ là phổ biến; giai cấp công nhân yếu cả về chất lẫn
về
lượng; ảnh hưởng tư tưởng thực dân, phong kiến còn khá nặng nề… Điều kiện kinh tế – xã hội đó
tạo thành khó khăn nhất định trong việc chúng ta tiếp nhận và vận dụng
chủ nghĩa Mác - Lênin nói chung, triết học Mác
- Lênin nói riêng vào việc phân tích tình hình xã hội và lựa chọn con đường cho sự
phát triển đất nước. Khi nói về khó khăn này,
V.I.Lênin viết: “Chủ nghĩa Mác được giai cấp công nhân và những nhà tư tưởng của giai cấp đó lĩnh
hội một cách dễ dàng nhất, nhanh chóng
nhất, đầy đủ nhất và chắc chắn nhất trong điều kiện nền đại công
nghiệp được phát triển
tới mức
cao nhất. Những quan hệ kinh tế lạc
hậu hay chậm phát triển thường xuyên dẫn tới chỗ là, trong phong trào công nhân, xuất hiện những phần tử chỉ lĩnh hội được một
số khía cạnh của chủ nghĩa Mác, một
số bộ phận riêng biệt của thế giới quan mới, hoặc một
số khẩu hiệu và yêu sách riêng biệt, mà lại không thể đoạn
tuyệt dứt khoát với tất cả những truyền thống
của thế giới
quan tư sản nói chung
và của thế giới quan dân chủ – tư sản nói riêng”(1). Đó là khó khăn về mặt nhận thức. Còn khó khăn về mặt tiền
đề hiện thực cho
quá trình cách mạng đó, V.I.Lênin cũng chỉ ra:
“Chúng ta không thể
xây dựng chủ nghĩa xã hội được nếu không có di sản của nền văn hoá tư bản. Chúng ta không có gì khác để
xây dựng chủ nghĩa xã hội ngoài những cái mà chủ nghĩa tư bản để
lại cho chúng ta”. Trong hoàn cảnh thiếu tiền đề
như vậy, người cộng sản chỉ có thể xây dựng thành công
chủ nghĩa xã hội nhờ biết vận dụng thành quả của chủ nghĩa tư
bản, biết sử dụng chuyên gia tư sản. “Bây giờ chúng ta phải xây dựng trong thực tiễn, - V.I.Lênin viết, - và chúng ta phải thiết lập
xã
hội cộng sản với bàn tay của kẻ thù của chúng ta. Điều này có vẻ như là một mâu
thuẫn thậm chí có thể là một
mâu thuẫn không giải quyết được, nhưng thực
ra, chỉ có bằng cách đó mới
có thể giải quyết được vấn đề xây dựng chủ nghĩa cộng sản”(2). Với tinh thần đó, V.I.Lênin nhấn mạnh: chúng ta phải biết dùng ngay bàn tay
giai cấp tư sản, bắt
nó cày trên miếng
đất
mà trên đó, chủ nghĩa tư
bản không thể nảy
sinh và tồn tại
được.
Sự yếu kém của cơ sở kinh tế – xã hội dễ dẫn
đến sự phiêu lưu mạo hiểm trong những quyết sách lớn, nhưng lại dễ do dự, chần chừ trước những việc làm dường như
là nhỏ nhặt nhưng hết sức thiết thực cho
nhân dân. Đề cập
tới căn bệnh đó, V.I.Lênin viết: “Trong toàn bộ lĩnh vực những quan hệ xã hội, kinh tế và chính trị, chúng ta đều tỏ ra là cách mạng “ghê gớm”. Nhưng về mặt cấp bậc, về mặt tôn trọng những hình thức và những thể lệ
về thủ tục hành chính thì “tính cách mạng”
của chúng ta lại thường hay nhường chỗ cho
tinh thần thủ cựu hủ
bại nhất. Người ta có
thể nhận thấy ở đây một hiện
tượng
đáng chú ý là trong đời sống xã hội, bước nhảy vọt phi thường kèm theo một
sự rụt rè ghê gớm trước những thay đổi nhỏ nhặt nhất”(3).
Những khó khăn và mâu
thuẫn nói trên cũng in
đậm dấu ấn của chúng vào bức tranh mâu
thuẫn của quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường và động lực đi
lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam hiện nay.
1- Mâu thuẫn của quá trình nhận thức
và
vận dụng triết học Mác - Lênin về con đường đi
lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta
trong giai đoạn cả nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội
Ở Việt Nam, sau Đại thắng mùa Xuân
năm 1975, đất nước đã hoàn toàn thống nhất.
Bên
cạnh một số thành tựu giành được trong giai đoạn đầu xây dựng lại
đất nước, chúng ta có tư
tưởng say sưa với thắng lợi, chủ quan,
nóng vội, muốn
tiến nhanh lên chủ nghĩa xã hội trong một thời
gian
ngắn. Đất nước lại bị
các thế lực thù địch bao vây, cấm vận; chiến tranh biên giới Tây Nam
và biên giới phía Bắc xảy ra,... Những khuyết điểm của mô hình kinh tế kế hoạch hoá tập
trung bao cấp cũng bộc lộ ngày càng gay gắt. Chúng ta đứng trước những khó khăn, thách thức mới, đất nước dần dần lâm vào khủng hoảng kinh tế - xã hội trầm trọng(4). Đưa đất nước thoát khỏi tình trạng đó là vấn đề sống còn của cách mạng nước ta. Muốn vậy, trước hết phải thay đổi mạnh mẽ, cơ bản cách nghĩ, cách làm. Theo tinh thần đó, Hội nghị Trung ương 6 khoá IV (tháng 8 - 1979), đã chủ trương và quyết tâm làm cho sản xuất “bung ra”.
Nhu cầu bức xúc đó
gặp
phải lực cản hết sức to lớn từ phong cách tư duy,
nề
nếp làm ăn cũ vốn ăn sâu bám rễ trong không ít cán bộ, đảng viên và nhân dân suốt 20
năm xây dựng chủ nghĩa xã hội với mô
hình
kinh tế tập trung quan liêu bao cấp. Do sự bao cấp về tư
duy, đại đa số cán bộ, đảng viên và
nhân dân quen sống “vô lo vô nghĩ”, tất cả mọi
cái đã được một bộ phận cao
nhất của xã hội lo thay, chỉ việc nói theo, làm theo…
Điều này khiến người ta
lo
lắng khi phải tự tìm lối thóat cho bản thân mình. “Mỗi người hãy tự
cứu
mình trước khi kêu trời cứu” – một tư
tưởng rất đúng khi đó đã được đưa ra, nhưng không phải mọi người đều cảm nhận và có năng lực làm được. Từ chỗ quen với nếp sống coi giải
quyết công ăn việc làm là trách nhiệm của Đảng, của Nhà nước chuyển sang cách nghĩ, cách làm mới:
mỗi người phải tự tạo việc làm cho mình - đó
là một
bước chuyển không hề đơn giản. Cho đến nay, nghĩa là sau hơn 20 năm đổi mới, trong xã hội ta không phải là không còn một số người vẫn nghĩ và nói như vậy. Đương nhiên, phê phán tư tưởng ỷ lại đó không phải để rồi loại bỏ hoàn toàn trách nhiệm tạo công ăn việc làm cho
nhân dân của Đảng và Nhà nước. Nhưng trong vấn đề này, trách nhiệm của Đảng và Nhà nước không còn như cũ (công dân đến tuổi lao động là nhà nước phải xếp công việc cho họ), mà chủ yếu là tạo cơ chế, chính sách, đòn bẩy… để người dân tự tạo việc làm cho mình.
Một đột phá trong cơ chế, chính sách như
vậy
trong những năm đầu đổi mới
là
sự ra đời của cơ chế khoán trong nông nghiệp.
Những tìm tòi, sáng tạo của Đảng được thể hiện ở Nghị quyết Hội nghị Trung ương
6 khoá IV và các nghị quyết tiếp theo đã đặt những cơ sở đầu tiên cho quá trình đổi mới sau này. Tuy nhiên, những tìm tòi đổi mới ban đầu diễn ra
còn
rất khó khăn, phức tạp. Trước những khó khăn về kinh tế và đời sống, có khuynh hướng muốn quay
lại với quan niệm và cách làm cũ. Hội nghị Trung ương 5
khoá
V (tháng 12 - 1983) coi sự
chậm chạp trong cải tạo xã hội chủ nghĩa là một trong những nguyên nhân của tình trạng khó khăn về kinh tế - xã
hội,
và chủ trương để
ổn định tình hình, phải đẩy mạnh hơn nữa việc cải tạo xã hội chủ nghĩa; Nhà nước phải nắm hàng, nắm tiền, xoá bỏ
thị trường tự do
về
lương thực và các nông hải sản quan trọng;
thống nhất quản lý giá; bảo đảm cung cấp đủ
9 mặt
hàng theo đúng định lượng cho người ăn
lương; lập cửa hàng cung cấp,...Trong hợp tác xã nông nghiệp thì quản lý, điều hành chặt chẽ tất
cả các khâu theo kế hoạch.
Hội nghị Trung ương 6 khoá V (tháng 7 -
1984) vẫn chủ trương “đẩy mạnh
cải tạo xã hội chủ nghĩa”, đẩy mạnh thu
mua nắm nguồn hàng, cải tạo thị trường tự do,... Điều đó cho
thấy, sự đổi mới tư duy là không đơn giản; quan niệm cũ về cải tạo xã hội chủ nghĩa còn ăn
sâu
bám rễ trong nhiều người. Trên thực tế, khủng hoảng
kinh
tế - xã hội
ngày một nghiêm trọng; đời sống nhân dân, nhất là người làm công ăn lương, ngày càng khó khăn.
Qua đó cho thấy, đổi mới là quá trình biện chứng đầy mâu thuẫn,
sự tiến lên kèm theo với những thụt lùi. Con đường không thẳng tắp.
Đại hội VI đã đưa ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước - từ
đổi mới tư duy đến đổi mới tổ chức bộ máy;
từ đổi mới phương pháp
lãnh đạo đến phong cách hoạt động; từ đổi mới kinh tế đến đổi mới hệ thống
chính trị và các lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Trong khi chủ trương đổi mới toàn
diện như vậy, Đại hội cũng xem đổi mới tư
duy lý luận về chủ nghĩa xã hội là khâu đột phá. Điều đó chứng tỏ có mâu thuẫn
gay gắt giữa yêu cầu thực
tiễn đổi mới với sự lạc
hậu trong nhận thức lý luận về chủ
nghĩa xã hội.
Đại hội VII (năm 1991) thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Thành
tựu phát triển
tư duy lý luận về chủ nghĩa xã hội mà
Đảng ta đạt
được sau 5 năm đổi mới
được biểu hiện tập
trung nhất trong văn kiện quan trọng này. Bước tiến đó biểu hiện ở hai nội dung cơ bản: 1/ Quan niệm tổng quát nhất về xã hội xã hội chủ nghĩa mà chúng ta cần
xây dựng; 2/ Những phương hướng cơ bản để xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước
ta trong thời kỳ mới.
Để sự lãnh đạo của Đảng thực sự là nhân tố có ý nghĩa quyết định, bảo đảm giữ vững định hướng xã hội chủ nghĩa của quá trình đổi mới, Đảng phải kiên trì và phát triển nền tảng tư tưởng, lý luận cách mạng và khoa học. Nền tảng tư tưởng, lý luận đó là gì? Nhiều năm trước đó, chúng ta luôn khẳng định đó là chủ nghĩa Mác - Lênin. Song, cơ sở nảy sinh chủ nghĩa Mác – Lênin là thực tiễn phương Tây. Mà phương Tây thì chưa phải là toàn bộ thế giới và do vậy, chúng ta phải
mang lại cơ sở phương Đông cho chủ nghĩa Mác (Hồ Chí Minh). Xuất phát từ quan điểm phương pháp luận đó, dựa trên thành quả nghiên cứu về tư tưởng Hồ Chí Minh, Cương lĩnh của Đảng khẳng định vị trí và vai trò của tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn bộ quá trình phát triển của cách mạng Việt Nam: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản”.
Trong nhiều năm trước đây, các học giả mácxít, nhất là các học giả mácxít ở các nước đang xây dựng chủ nghĩa xã hội, thường có nhận thức không đúng về kinh tế thị trường, nhà nước pháp quyền, coi chúng là những cái vốn có chỉ của chủ nghĩa tư bản, phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản; đồng thời phê phán, lên án bất kỳ ai có ý định nêu lên tư tưởng chủ nghĩa xã hội cũng phải phát triển kinh tế thị trường, xây dựng nhà nước pháp quyền, cho đó là rơi vào âm mưu của giai cấp tư sản. Bước vào giai đoạn đổi mới, Đại hội VII (1991) của Đảng khẳng định đường lối phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, vận động theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước, theo định hướng xã hội chủ nghĩa. Tiếp theo, tại Hội nghị đại biểu toàn quốc giữa nhiệm kỳ khóa VII (tháng 1 -
1994), lần đầu tiên Đảng khẳng định phải xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân. Cùng với sự khẳng định chủ nghĩa xã hội cần phải phát triển kinh tế thị trường, đây cũng là một điển
hình của mâu thuẫn
giữa tư
duy cũ và tư duy mới về chủ
nghĩa xã hội…
Nhận thức về quan hệ đối ngoại cũng vượt qua một mâu thuẫn cực kỳ quan trọng: từ
chỗ
nhấn mạnh quá mức “hai phe, 4 mâu thuẫn”, coi thế giới tư bản chủ nghĩa cơ bản là thế giới thù địch, chúng ta đã nêu lên một tư tưởng đối ngoại hết sức quan trọng, mang tầm chiến lược: “Thực hiện nhất quán
đường lối đối
ngoại độc lập tự
chủ, rộng mở, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển”. Đường lối này đã được cụ thể
hoá trong Nghị quyết Hội nghị Trung ương 8 khoá IX
với cách nhìn nhận mới và thống nhất về các vấn đề đối
tác và đối tượng. Đây là một
cách nhìn biện chứng, định hướng cho chính sách đối ngoại của Đảng và Nhà nước trong
giai đoạn mới.
Đại hội X có một
cống hiến quan trọng vào việc giải quyết mâu
thuẫn giữa lý tưởng căn bản, lâu dài của Đảng với nhiệm vụ cụ
thể của từng thời kỳ, đó là chủ trương cho phép đảng viên làm kinh tế tư nhân (bao gồm cá thể, tiểu chủ, tư bản tư
nhân) với một số quy
định do Ban Chấp hành Trung ương đưa ra.
Như vậy, có thể thấy rằng, chính là nhờ quá trình phát hiện và giải quyết mâu thuẫn trong nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà
lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày một rõ hơn. Khẳng định điều đó
không có nghĩa là những mâu
thuẫn trong quá trình nhận thức của chúng ta về con đường đi
lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được giải quyết hết. Trái lại, công cuộc đổi mới càng được triển khai sâu rộng bao nhiêu thì những vấn đề
mới
nảy sinh cần giải quyết ngày
càng
nhiều bấy nhiêu. Chẳng hạn, cho đến nay, khi nhu cầu hoàn thiện thể chế của nền kinh
tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa đã được đặt ra rất cấp thiết, thì chúng ta vẫn chưa hình thành được một khung lý luận về thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nên nhiều khi chưa tôn trọng đầy đủ và nhất quán những nguyên tắc của nền kinh tế thị trường trong xây dựng, vận hành và xử lý các vấn đề của nền kinh tế. Chúng ta cũng chưa xác định rõ và tạo được sự nhất trí cao về những đặc trưng của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, đặc biệt là về tính định hướng xã hội chủ nghĩa, nên còn lúng túng, không biết thế nào là đúng hướng, thế nào là chệch hướng. Mặt khác, chúng ta cũng chưa nhận thức
rõ
về vị trí, vai trò và mối quan
hệ
giữa các nhân tố
cấu thành chủ yếu của nền kinh tế thị
trường, như
Nhà nước,
thị trường và doanh nghiệp… cho nên chưa phát
huy tốt tác dụng của các
nhân tố đó.
Hiện có không ít ý kiến cho rằng, không nên phân định các thành phần kinh
tế,
vì sự phân định đó sẽ dẫn
đến thái độ phân
biệt đối xử. Nhưng nhiều ý
kiến khác lại nhấn
mạnh việc phân định các thành phần kinh tế là cần thiết,
vì
đó là thực tế khách quan, giúp nhận rõ xu
hướng vận động và phát triển của nền kinh tế để
có chính sách phát triển và quản lý phù hợp. Cũng chưa có
sự
thống nhất trong nhận thức về vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Có ý kiến cho rằng, xác định như vậy sẽ tạo ra tình
trạng không bình đẳng và cạnh tranh không lành mạnh giữa các thành phần kinh tế; có ý
kiến đề nghị không nên
đặt vấn đề có một
thành phần kinh tế nào đóng vai trò chủ đạo. Lại có ý kiến cho rằng, Nhà nước đóng vai trò chủ đạo chứ không phải kinh tế nhà nước; rằng, Nhà nước là lực lượng định hướng, dẫn dắt
và
quản lý sự phát triển.
Về mặt đường lối, Đảng đã xác
định mục tiêu đến năm 2020,
nước ta về cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại, nhưng hiện vẫn chưa làm rõ
các tiêu chí cụ thể để
làm
đích hướng tới.
Nói chung, các bước đi của cả quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá chưa được làm rõ, chậm cụ thể hoá mô hình, dẫn đến còn nhiều lúng túng trong thực hiện. Nhận thức thế nào là nền kinh tế độc lập tự chủ và sự tuỳ thuộc giữa các nền kinh tế trong bối cảnh toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế là vấn đề còn nhiều ý kiến khác nhau.
Cho đến nay, cũng chưa có
một quan niệm thống nhất về công bằng và bình đẳng, về sự phân hoá giầu nghèo ở nước ta. Có ý kiến cho rằng, xu hướng phân hóa giàu nghèo, phân hóa phát triển đang gia tăng như hiện
nay là không phù hợp với định hướng xã hội chủ nghĩa, do đó, không thể
chấp nhận được.
Ý kiến khác cho rằng, thoát khỏi tụt hậu
mới chính là nhiệm vụ hàng đầu, mang tính sống còn của dân tộc ta,
nhất là trong điều kiện hội nhập kinh tế quốc tế, do vậy, cần ưu tiên hơn cho mục tiêu tăng trưởng, cần chấp nhận
phân hóa giàu nghèo
ở một
mức độ nhất định và trên cơ sở tăng trưởng cao để
giải quyết tốt
hơn
vấn đề công bằng xã hội.
Còn có sự thiếu thống nhất
trong nhận thức về hội nhập văn hoá và giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc. Không ít vấn đề lý luận về Đảng cầm quyền trong điều kiện kinh tế thị trường, dân chủ hoá và mở cửa chưa được làm sáng tỏ…
Xem tiếp >>>
NHỮNG MÂU THUẪN
NẢY SINHTRONG QUÁ TRÌNH NHẬN THỨC VÀ VẬN DỤNGTRIẾT HỌC MÁC - LÊNIN VỀ CON ĐƯỜNG VÀ ĐỘNG LỰC LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở VIỆT NAM HIỆN NAY (Tiếp theo)
PHẠM NGỌC QUANG(*)
Những mâu
thuẫn trên lĩnh vực nhận thức một
số vấn đề vừa nêu và sự
chậm chạp trong việc giải quyết chúng đang cản trở công cuộc đổi mới.
2- Mâu thuẫn của
quá trình nhận thức và vận dụng triết học Mác - Lênin về động lực đi
lên
chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
giai đoạn quá độ
lên
chủ nghĩa xã hội
Động lực của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội là một hệ thống: kết
hợp
hài hòa lợi ích cá nhân,
tập
thể và toàn dân; thi
đua xã hội chủ nghĩa; đấu tranh giai cấp; hội nhập kinh tế quốc tế;
đại đoàn kết toàn dân tộc; dân chủ xã hội chủ nghĩa… Trong phạm vi bài viết này, tôi xin
chỉ trình bày một số mâu
thuẫn liên
quan tới động lực đại đoàn kết toàn dân tộc và dân chủ
xã hội chủ nghĩa.
- Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc trên nền
tảng liên minh
giai cấp công nhân, giai cấp nông dân và đội ngũ trí thức
dưới sự lãnh đạo của Đảng là động
lực chủ yếu bảo đảm thắng lợi bền vững của sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Để phát huy được động lực này, chúng ta đang phải giải quyết một
loạt mâu thuẫn:
+ Mâu thuẫn giữa yêu cầu công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đô thị hoá với tình trạng thu hẹp diện tích đất
nông nghiệp, chậm chuyển đổi lao động, ngành nghề ở nông thôn, sự thâm nhập của văn hoá đô thị với truyền thống văn hoá nông nghiệp – nông thôn tồn tại hàng ngàn năm với những mặt tích
cực và tiêu cực của nó… Do chưa
giải quyết tốt
mâu thuân này, tình trạng nông dân không biết sử dụng có hiệu
quả tiền đền bù
đất
canh tác bị thu hồi dẫn đến “hai bàn tay
trắng” đang gây nhiều vấn đề xã hội bức xúc; tình trạng thiếu ổn định về kinh tế – xã
hội
ở nông thôn có xu hướng gia
tăng; nhiều chuẩn
mực văn hóa cũ – trong đó
có những yếu tố tích
cực - đang bị đảo lộn, mai một
dần, trong khi những chuẩn mực văn hoá mới đáp ứng đúng nhu cầu đổi mới ở nông thôn chưa được xác lập; tệ nạn xã hội thâm nhập và phát triển trên cơ sở kinh tế nông nghiệp, tâm lý
nông dân càng trở nên bức xúc.
+ Mâu thuẫn giữa việc bảo đảm khối đoàn kết thống nhất trên nền tảng một
hệ tư tưởng, một
quan hệ lợi ích chung… với tình trạng phân hoá của cơ cấu giai cấp – xã hội đang diễn ra hết sức phức
tạp.
Xét về cơ cấu giai cấp, giai
cấp công nhân Việt Nam ở thời kỳ trước đổi mới mang tính thống nhất
và thuần nhất, chỉ bao
gồm công nhân quốc doanh và công nhân
tập thể. Ngày nay, sự
đa dạng hoá thành phần kinh tế đã kéo theo sự đa dạng hoá cơ cấu của giai cấp này. Xét về phương diện kinh tế - chính trị, giai cấp công nhân hiện bao gồm: công nhân quốc doanh,
công nhân tập thể, công nhân làm việc trong các doanh
nghiệp cá thể – tiểu chủ, công
nhân trong doanh nghiệp tư
nhân (được hiểu như là tư bản tư nhân), công nhân làm việc trong doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài, trong doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài, công nhân
xuất
khẩu lao động… Xét về cơ cấu kinh tế – kỹ thuật, giai cấp công nhân Việt Nam hiện nay bao gồm: công nhân lao động giản đơn; công nhân kỹ thuật; kỹ thuật viên, kỹ sư thực
hành; công nhân tri thức (lao động của họ
vừa nhằm tạo
ra các tri thức mới, vừa vận dụng tri
thức mới đó
vào
sản xuất vật chất);
công nhân dịch vụ thực hiện chức năng
của mình bằng những quy trình, công nghệ hiện đại;…
Xét về nguồn gốc xuất thân,
số công nhân sinh ra trong gia đình có truyền thống
vài đời là công nhân chiếm tỷ trọng nhỏ; phần lớn trong số họ
cách đây không lâu
còn là nông dân.
Sự khác biệt về nơi làm việc, về truyền
thống gia đình, về trình độ tay nghề và - cùng với nó - là sự khác nhau về thu nhập… dẫn tới sự khác nhau không chỉ về nhu cầu, lợi ích cụ thể, mà cả một số vấn đề liên quan tới mục tiêu, lý tưởng sống của cá nhân công nhân cũng như của tổ chức công đoàn – những nhân tố có vai trò quan trọng bảo đảm sự thống nhất về chính trị, tư
tưởng, tổ chức của phong trào công nhân.
Đội ngũ trí thức của đất nước cũng đang trải qua một thời kỳ biến động phức tạp.
Sự đa dạng về nguồn gia nhập đội ngũ trí thức, về nguồn đào tạo, về ngành nghề và nơi làm việc… ngày một
gia
tăng. Điều đó, về cơ bản, tạo
ra sức mạnh của đội ngũ trí
thức trong thời kỳ đổi mới. Mặt khác, trình độ phát
triển còn thấp về kinh tế, khả năng trang bị
cho nghiên cứu khoa học cũng
như điều kiện ứng dụng kết quả nghiên cứu còn nhiều hạn chế đã ảnh hưởng không nhỏ tới động lực làm việc của trí
thức. Bên cạnh đó, cũng cần thấy rằng, đặc
trưng hoạt động của trí thức
là
sáng tạo. Môi trường thuận lợi nhất cho hoạt động đó là dân chủ. Dân chủ cần cho sáng tạo như
không khí cần cho cơ thể sống vậy. Trong khi đó, tình trạng quan liêu – cái
đối
lập với dân chủ – ở nước ta còn tồn tại khá nặng nề. Liên quan tới hoạt động sáng tạo
của trí thức, chúng ta đã trải qua hơn 10 năm soạn thảo với hàng chục bản sơ thảo khác nhau để đưa ra Quy
chế dân chủ trong công tác tư tưởng – lý luận, nhưng đến nay vẫn chưa ban hành được. Sự
thiếu vắng của văn bản pháp lý này đã và đang là một cản
trở đối với hoạt động của trí thức.
Các giai cấp, tầng lớp xã hội khác cũng có những điểm tương tự.
Đại đoàn kết toàn dân tộc chỉ
được củng cố và phát huy như một động lực mạnh
mẽ nhất khi các nhân tố cấu thành cộng đồng dân tộc ý thức rõ lợi ích chung của đất
nước, lấy đó làm điểm tương đồng, mọi người
đều nỗ lực thực
hiện lợi ích chung đó. Ở nước ta hiện nay, giữ vững độc lập, thống nhất Tổ
quốc, vì “dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh” chính là điểm tương đồng như vậy. Đó
là
nói về điểm tương đồng trong tính tổng quát, ở
tầm vĩ mô. Còn đi vào cụ thể, như
đã trình bày trên đây,
sự tương đồng đó lại đang được thể hiện
và thực hiện thông qua những mục tiêu, lợi ích
cụ thể hết sức đa dạng, hết
sức
khác nhau. Sự kết hợp hài hoà các mặt
đối lập đó đang là một
nhu cầu bức xúc ở nước ta hiện nay.
- Phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, đẩy mạnh dân chủ hoá đời sống xã hội là động lực của công cuộc đổi mới. Để phát huy được động lực này, chúng ta đang phải giải quyết không ít mâu
thuẫn có liên quan. Một trong số đó
là
kinh tế nhiều thành phần nhưng thể
chế chính trị lại nhất nguyên: ở nước ta, chỉ một
đảng duy nhất cầm quyền – Đảng Cộng sản Việt Nam. Từ đó hình thành nền “dân chủ nhất nguyên”.
Dân chủ trong điều kiện một Đảng Cộng sản duy nhất cầm quyền có nhiều thuận lợi cơ bản, song cũng có nhiều thách thức cam go.
Như chúng ta đã biết, quyền lực bao giờ cũng có
hai mặt: một mặt, quyền lực là sức mạnh to lớn để Đảng sử dụng nhằm đưa cả
dân tộc vào sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước; mặt khác, quyền lực
lại có thể làm hư hỏng nhiều con người, thậm chí
cả một đảng nắm quyền lực. Cũng như V.I.Lênin, Hồ Chí Minh đã chỉ ra
từ rất sớm nhiều biểu hiện hư
hỏng đó: tham
quyền, lộng quyền,
lợi dụng quyền lực, tranh giành quyền lực, vi phạm quyền dân chủ của nhân dân… làm cho dân chủ xã hội chủ nghĩa chỉ còn là hình thức. Sự sụp đổ của chế độ
xã
hội chủ nghĩa và sự tan rã của các Đảng Cộng sản cầm quyền
ở Liên Xô và Đông
Âu
gần cuối thế kỷ trước cũng có nguyên nhân sâu xa từ đó.
Trong bối cảnh đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã khẳng định Đảng phải tiếp tục đổi mới, đất nước phải tiếp tục đổi mới, nhưng cần đổi mới có nguyên tắc; phải tiếp tục hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa với những nguyên tắc đúng đắn, những hình thức, biện pháp, bước đi thích hợp. Khẳng định điều đó không có nghĩa đến nay chúng ta đã giải quyết được mọi khó khăn, mâu thuẫn của quá trình dân chủ hoá ở nước ta đang đặt ra – cả từ phương diện lý luận lẫn chính sách thực tiễn.
- Về nhận thức:
Nhận thức về dân chủ trong một
bộ phận cán bộ, đảng viên và nhân dân còn nhiều
hạn chế. Không ít người đồng nhất tình trạng dân chủ hiện nay với dân chủ xã hội chủ nghĩa mà chúng
ta mới đang đi những bước đầu trên con đường tạo lập nó. Một số khác lại
có ảo tưởng muốn đạt ngay một trình độ phát
triển cao của dân chủ khi nhiều tiền đề khách quan và chủ quan chưa chín muồi. Do
không hiểu thực
chất dân chủ trong chủ nghĩa tư
bản, một bộ phận trong cán bộ,
đảng viên và nhân dân ngộ nhận dân chủ đó
như là giá trị tuyệt đỉnh mà chủ nghĩa xã hội cũng phải khuôn theo. Tình trạng tách rời, thậm chí đối lập giữa dân chủ
và kỷ cương, dân
chủ và pháp luật còn xuất hiện
ở không ít người.
- Trong thực tiễn:
Việc đổi mới
nền hành chính quốc gia còn rất hạn chế. Bộ máy hành chính còn nhiều
tầng nấc làm cho việc quản lý các quá trình kinh tế - xã hội chưa thật nhanh, nhạy và có
hiệu
quả. Tình trạng quan liêu, hách dịch, nhũng nhiễu của một bộ phận công chức nhà nước chưa được khắc phục; kỷ cương, phép nước bị xem thường ở nhiều nơi. Phương thức tổ
chức, phong cách hoạt động của Mặt trận và các đoàn thể vẫn chưa thoát khỏi tình trạng hành chính, xơ cứng. Nạn tham nhũng trong hệ thống chính trị
còn
trầm trọng. Quyền làm
chủ của nhân dân ở nhiều nơi còn bị vi phạm.
Những hạn chế trên đây có
nguyên nhân khách quan
và chủ quan
của chúng.
Về khách quan:
Dân chủ với tư
cách một vấn đề chính
trị do trình độ kinh tế quy định. Trình độ thấp
kém của kinh tế hiện nay ở Việt Nam chưa thể
là mảnh
đất tốt cho sự phát triển của dân chủ trong xã hội.
Bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa để tiến lên chủ nghĩa xã hội cũng có nghĩa là bỏ qua dân chủ tư sản, nhân dân chưa có ý thức và năng lực thực hành dân chủ, chưa có một nền văn hoá dân chủ ở mức cần thiết, chưa có thói quen tuân thủ pháp luật nên dễ rơi vào cực đoan này
hay cực đoan kia.
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân mới đang từng bước được xây dựng; hệ chuẩn pháp luật còn thiếu và chưa đồng bộ, thiếu nhất quán.
Mặt bằng dân trí, trình độ học vấn chung còn có sự
bất
cập.
Thêm vào đó, còn phải kể tới tác
động từ mặt trái của cơ chế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
Về chủ quan:
Nhận thức về dân chủ trong điều kiện một Đảng
Cộng sản duy nhất cầm quyền,
đang từng bước phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, hội nhập kinh
tế quốc tế… còn có những điểm chưa rõ. Trong khi đó,
vấn đề này lại chưa được tập
trung chỉ đạo nghiên cứu.
Các cấp uỷ
Đảng chưa tập trung
thảo luận, quyết định, có giải pháp đồng bộ, triệt để nhằm
thống nhất về quan điểm, chủ trương, giải pháp đổi mới
hệ thống chính trị, tìm tòi
những hình thức thực hiện
dân chủ đa dạng.
Việc nghiên cứu vấn đề
dân chủ và hệ thống chính trị trong chủ nghĩa tư bản hiện đại, để
từ đó rút ra những điều có
thể tham khảo cho việc đổi mới
hệ thống chính trị, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền ở Việt Nam còn chưa đạt yêu cầu cao. Nhiều
cấp bộ Đảng chưa thực sự trở thành biểu tượng về dân chủ trong xã hội.
Thực tiễn đã khẳng định sự lãnh đạo của Đảng là nhân
tố quyết định mọi
thắng lợi của công cuộc đổi mới
nói chung, phát huy dân chủ trong điều kiện một đảng duy nhất cầm quyền nói riêng.
Nhưng
để có một xã hội thực sự dân chủ, Đảng phải từng bước vươn lên thành biểu tượng về dân chủ.
Để dân chủ hoá Đảng, cần chú ý 3 điểm:
- Dân chủ hoá, đổi mới
mạnh mẽ quá trình hoạch định các quyết
sách chính trị của Đảng. Muốn vậy, cần tổ chức hệ thống
hỏi ý kiến nhân dân theo định kỳ và đột xuất đối với mọi
cán bộ lãnh đạo và tổ chức đảng. Để việc hỏi ý kiến có chất
lượng, cần tạo mọi
điều kiện để dân biết đường lối, chủ trương, chính sách và trách nhiệm của cơ quan, cá
nhân, cán bộ phụ trách thực hiện, kết quả thực hiện
một nhiệm vụ nào đó
đã được giao.
- Xây dựng và vận hành hệ thống phản biện của Mặt trận, đoàn thể và nhân dân nói chung
đối với đường lối, chính sách của Đảng.
- Dân chủ hoá hoạt động của Đại hội Đảng, dân chủ hoá trong sinh hoạt của Ban Chấp hành Trung ương, của Bộ Chính trị là trọng điểm. Trên cơ sở đó, xây dựng dân chủ trong sinh hoạt của cấp uỷ Đảng các cấp còn lại,…
Để Đảng thực sự là tấm gương về dân chủ, còn cần đổi mới phương thức lãnh đạo
của Đảng đối
với hoạt động của bản thân Đảng, trước hết
là hoạt động xây dựng Đảng về chính trị, tư tưởng, tổ chức. Dân chủ hoá là
giải pháp quan trọng nhất để
nâng cao hiệu quả hoạt
động của Đảng trên lĩnh vực này. Trong công tác tư tưởng, chính trị: không áp
đặt; khi có ý kiến khác
nhau, tôn trọng ý kiến đa số nhưng có
cơ chế bảo lưu ý kiến của thiểu số, tôn trọng ý kiến cấp trên nhưng cũng có cơ chế bảo lưu ý kiến cấp dưới; định rõ thời hạn
xem
xét, kết luận các ý kiến thiểu số
đó./.
(*) Giáo sư, tiến sĩ, Học viện Chính trị - Hành chính
Quốc gia Hồ Chí
Minh.
(1) V.I.Lênin. Toàn tập, t.20. Nxb Tiến bộ, Mátxcơva,
1980, tr.77.
(2) V.I.Lênin. Sđd., t.38, tr.170. (3) V.I.Lênin. Sđd.,
t.45, tr.454.
(4) Mặc dù đến Đại hội VII (tháng 6 năm 1991), Đảng ta mới chính thức sử dụng khái niệm "khủng hoảng kinh tế - xã hội" (Văn kiện Đại hội VII, tr. 59).
0 nhận xét:
Đăng nhận xét