Tháng
12 năm 1991, lá cờ búa liềm trên nóc điện Cremli bị hạ xuống, đánh dấu sự sụp
đổ một mô hình chủ nghĩa xã hội chưa phù hợp. Chủ nghĩa xã hội không còn là một
hệ thống, đây chỉ là bước thụt lùi tạm thời. Chủ nghĩa xã hội theo quy luật
phát triển tất yếu của xã hội nó sẽ được xác lập và thay thế chủ nghĩa tư bản.
Mặc dù, chủ nghĩa xã hội không còn là hệ thống thế giới nhưng một số nước đi
theo con đường xã hội chủ nghĩa kịp thời đổi mới đã và đang đạt được những
thành tựu to lớn trong đó có Việt Nam. Việc nghiên cứu, bổ sung lí luận và vận
dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và chủ nghĩa xã hội ở từng nước luôn được
đặt ra một cách bức thiết cho các Đảng cộng sản. Bên cạnh đó, mỗi cá nhân cũng
cần nghiên cứu và học tập để bồi dưỡng, nâng cao nhận thức về xã hội chủ nghĩa,
từ đó có những hành động và việc làm cụ thể góp phần vào công cuộc chủ nghĩa xã
hội của nhà nước và sự tiến bộ của nhân loại. Với những lí do trên, tôi đã chọn
đề tài tiểu luận của mình là: “Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường
đi lên xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam”.
Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được nghiên cứu từ lâu. Ngay từ khi
tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã nghiên cứu và vận dụng
sang tạo vào tình hình cụ thể ở Việt Nam. Đến nay, đã có rất nhiều công trình
của nhà nước, tập thể cũng như của cá nhân đã nghiên cứu về vấn đề này. Mặc dù
vậy, trong suốt quá trình đổi mới đất nước, thực tiễn sinh động nảy sinh nhiều
vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu và bổ sung.
Mục
đích và nhiệm vụ của đề tài này là nhằm nghiên cứu về chủ nghĩa xã hội từ lí
luận đến thực tiễn, đồng thời đúc rút kinh nghiệm thành công và những bài học
về quá trình xây dựng xã hội chủ nghĩa ở trong và ngoài nước, từ đó có nhận
thức rõ hơn, cụ thể hơn về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam.
-
Cơ sở lí luận: Đề tài được dựa trên lí luân của chủ nghĩa Mác-Lênin về chủ
nghĩa xã hội đồng thời xây dựng từ thực tiễn của các nước xã hội chủ nghĩa đặc
biệt là Việt Nam.
-
Phương pháp nghiên cứu: Đề tài sử dụng phương pháp luận chung nhất của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử trong triết học Mác -
Lênin. Bên cạnh đó, sử dụng các phương pháp khác như phương pháp kết hợp lịch
sử và logic, phương pháp khảo sát và phân tích, so sánh, điều tra xã hội học,…
Đề
tài nghiên cứu này có ý nghĩa thiết thực đối với việc học tập, nghiên cứu cũng
như vận dụng vào thực tế xây dựng thời kì quá độ đi lên chủ nghĩa xã hội, xây
dựng công cuộc công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước hiện nay. Mặt khác, còn
nâng cao nhận thức của cá nhân về xã hội chủ nghĩa và con đường đi lên xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, từ đó góp phần mình vào công cuộc xây dựng đất nước vì
chủ nghĩa xã hội, vì sự phất triển của dân tộc và tiến bộ của nhân loại.
Ngoài
phần mở đầu và kết luận, nội dung của đề tài gồm 2 chương:
Chương I: Nhận thức về chủ nghĩa xã hội.
Chương II: Con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở
Việt Nam.
C.Mác, Ph.Ăngghen đã vận dụng lí luận
hình thái kinh tế - xã hội để phân tích một xã hội hiện thực đó là xã hội tư
bản. Hai ông đã tìm ra quy luật phát sinh, phát triển và diệt vong của nó, đồng
thời dự báo về sự ra đời của hình thái kinh tế - xã hội mới cao hơn: hình thái
cộng sản chủ nghĩa và giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội.
C.Mác, Ph.Ăngghen đánh giá cao vai trò
lịch sử của chủ nghĩa tư bản trong việc phát triển lực lượng sản xuất tạo ra
nền công nghiệp cơ khí và gắn liền với nó là giai cấp vô sản cách mạng. Đó là
lực lượng sản xuất có tính chất xã hội. Chủ nghĩa tư bản càng phát triển thì
nển đại công nghiệp và giai cấp vô sản càng phát triển. Chính sự ra đời của nền
đại công nghiệp đã quyết định sự thắng lợi của chủ nghĩa tư bản đối với xã hội
phong kiến, thì đến lượt nó, sự phát triển của nền đại công nghiệp làm cho nền
sản xuất có tính chất xã hội lại mâu thuẫn với chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản
chủ nghĩa. Sự phát triển của lực lượng sản xuất có tính chất xã hội đòi hỏi
phải “tự giải thoát khỏi tính chất tư bản của chúng, đến chỗ thực tế thừa nhận
tính chất của chúng là những lực lượng sản xuất xã hội”[2;385]. Điều đó có
nghĩa là, phải xóa bỏ chế độ chiếm hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa, xác lập chế độ
sở hữu có tính chất xã hội, hay nói cách khác là chế độ công hữu. Và do đó, một
xã hội mới được thay thế chủ nghĩa tư bản, đó là chủ nghĩa xã hội.
Sự ra đời của chủ nghĩa cộng sản là một
quá trình phát triển tất yếu khách quan theo quy luật dựa trên những tiền đề
vật chất do chủ nghĩa tư bản tạo ra, và là kết quả của việc giải quyết các mâu
thuẫn vốn có trong lòng xã hội tư bản. Do đó nó phải vừa thừa kế, phát triển
các thành tựu văn minh đạt được trong lòng xã hội tư bản, vừa xóa bỏ tính chất
tư bản của nó, giải phóng con người khỏi ách áp bức bóc lột mang lại quyền tự
do, bình đẳng và cái giá trị đích thực của con người.
Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa
cộng sản, tất yếu phải thông qua cách mạng vô sản. C.Mác và Ăngghen dự báo
rằng: “Cuộc cách mạng cộng sản chủ nghĩa không những có tính chất dân tộc mà sẽ
đồng thời xảy ra trong tất cả các nước văn minh, tức là ít nhất, ở Anh, Mĩ,
Pháp, Đức. Trong mỗi nước đó cách mạng cộng sản chủ nghĩa sẽ phát triển nhanh
hay chậm là tùy ở chỗ nước nào trong những nước đó có công nghiệp phát triển
hơn, tích lũy được nhiều của cải hơn và có nhiều lực lượng sản xuất
hơn”[8,472].
Trong khi dự báo cách mạng vô sản
trước hết nổ ra ở các nước tư bản phát triển, hai ông cũng cho rằng, khi giai
cấp vô sản ở các nước liên tiếp giành được chính quyền, với kinh nghiệm và sự
giúp đỡ của các giai cấp vô sản ở các nước đó, các nước lạc hậu có thể phát
triển theo con đường “rút ngắn”, từng bước lên chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa cộng
sản không bỏ qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa.
Cuối thế kỉ XIX
đầu thế kỉ XX, chủ nghĩa tư bản đã phát triển từ giai đoạn tự do cạnh tranh
sang giai đoạn độc quyền, giai đoạn đế quốc chủ nghĩa. Đến giai đoạn này, tính
chất xã hội của lực lượng sản xuất trong các nước tư bản đã đạt đến trình độ
cao, và theo Lênin, nó làm cho những quan hệ sản xuất xã hội đang thay đổi làm
cho những quan hệ kinh tế - tư nhân và những quan hệ tư hữu là một cái vỏ,
không còn phù hợp với nội dung của nó nữa”[9;539].
Lênin phát hiện ra quy luật phát
triển không đồng đều của chủ nghĩa tư bản, từ đó đã đi đến kết luận mới về cách
mạng vô sản, về sự thắng lợi của chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, sự phát triển
không đồng đều về kinh tế và chính trị là quy luật tuyệt đối của tư bản chủ
nghĩa. Do đó, chúng ta thấy rằng chủ nghĩa xã hội có thể thắng trước hết là ở
một số ít nước tư bản chủ nghĩa hoặc thậm chí trong một nước tư bản chủ nghĩa
tách riêng ra.
Dự đoán của Lênin
đã trở thành sự thật. Tháng 10 năm 1917, cách mạng vô sản nổ ra và thắng lợi ở
nước Nga, nhà nước xã hội chủ nghĩa đầu tiên trên thế giới ra đời. Song, nước
Nga khi đó còn là một nước lạc hậu, chủ nghĩa tư bản chưa phát triển, quan hệ
gia trưởng và sản xuất nhỏ còn nặng nề. Trong điều kiện đó, Lênin đã phát triển
sáng tạo lí luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội và khẳng định muốn đi lên
chủ nghĩa xã hội thì phải thực hiện thời kì quá độ mà thời kì quá độ lên chủ
nghĩa xã hội là một thời kì lâu dài, trải qua nhiều chặng đường. Ông đã chỉ ra
hai con đường cơ bản lên chủ nghĩa xã hội:
Con đường thứ nhất: quá độ trực tiếp
lên chủ nghĩa xã hội. Đây là con đường tiến lên chủ nghĩa xã hội đối với các
nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Con đường thứ hai: quá độ lên chủ
nghĩa xã hội thong qua nhiều khâu trung gian, nhiều bước quá độ. Đây là con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội đối với các nước lạc hậu, kinh tế kém phát triển.
Lênin cũng chỉ rõ rằng thời kì quá độ
đó là những cơn đau đẻ kéo dài, là quá trình xác lập lực lượng sản xuất mới dựa
trên cơ sở của tư bản chủ nghĩa, đặc biệt nhấn mạnh lợi dụng chủ nghĩa tư bản,
nhất là hướng vào chủ nghĩa tư bản nhà nước, làm khâu trugn gian để chuyển một
nước tiểu sản xuất lên chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin thì: “chủ nghĩa tư bản xấu
so với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa tư bản lại tốt với so với thời trung cổ, với
nền tiểu sản xuất với chủ nghĩa quan liêu do tình trạng phân tán của những
người tiểu sản xuất tạo nên. Vì chúng ta chưa có điều kiện để chuyển trực tiếp
từ nền tiểu sản xuất lên của nghĩa xã hội, bởi vậy, trong một mức độ nào đó,
chủ nghĩa tư bản là không thể tránh khỏi, nó là sản vật tự nhiên của nền tiểu
sản xuất và trao đổi; bởi vậy chúng ta phải lợi dụng chủ nghĩa tư bản (nhất là
bằng cách hướng nó vào con đường chủ nghĩa tư bản nhà nước) là mắt xích trung
gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, làm phưong tiện, con đường,
phương pháp, phương thức để tăng lực lượng sản xuất”[10;276].
Như vậy, theo C.Mác, Ăngghen và Lênin
thì chủ nghĩa xã hội là một nấc thang trong quá trình phát triển của xã hội
loài người là một xã hội phát triển cao hơn xã hội tư bản và thay thế chủ nghĩa
tư bản. Hình thái cộng sản chủ nghĩa mà giai đoạn đầu là chủ nghĩa xã hội bắt
đầu từ thời kì quá độ. Và dù là quá độ trực tiếp hay gián tiếp thì cũng đều nằm
trong quy luật và xu hướng tất yếu của lịch sử nhân loại.
Chủ
tịch Hồ Chí Minh là người thầy, người lập ra và lãnh đạo Đảng ta, vì vậy, những
quan điểm, nhận thức của Người thống nhất với quan điểm của Đảng ta về chủ
nghĩa xã hội.
Hồ Chí
Minh lãnh hội tư tưởng của Mác, Ăngghen và của Lênin xem chủ nghĩa xã hội là
học thuyết khoa học và cách mạng nhằm giải phóng giai cấp công nhân, một tư
tưởng cực kì quan trọng được nêu lên trên cơ sở khái quát thực tiễn đấu tranh
giai cấp ở các nước tư bản chủ nghĩa. Người phát triển sáng tạo tư tưởng đó
trên cơ sở khái quát bổ sung thực tiễn cuộc đấu tranh của nhân dân các nước
thuộc địa, phụ thuộc vừa nhằm giải phóng dân tộc khỏi ách nô lệ của chủ nghĩa
đế quốc, vừa nhằm giải phóng giai cấp công nhân và những người lao động khác
khỏi tình trạng bóc lột của địa chủ, tư sản. Ngay từ năm 1923, Người đã diễn
đạt hết sức chặt chẽ: “chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng
được dân tộc; cả hai cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của chủ nghĩa
cộng sản”[3;25]. Hồ Chí Minh chỉ rõ, kể từ sau thắng lợi của cuộc cách mạng
tháng Mười Nga vĩ đại, chủ nghĩa xã hội không chỉ còn là một ước mơ cao đẹp của
loài người mà đã trở thành một hiện thực trong xã hội.
Đối với
Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là một chân lí, đồng thời là một niềm tin: “không
có lực lượng gì ngăn trở đượcmặt trời mọc. Không có lực lượng gì ngăn trở được
lịch sử loài người tiến lên, cũng không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa
xã hội phát triển”[6;26]. Người coi: “chủ nghĩa xã hội không phải là gì cao xa,
mà đó là những gì rất cụ thể như ý thức lao động tập thể, ý thức kỉ luật, tinh
thần thi đua yêu nước, tăng sản xuất cho hợp tác xã, tăng thu nhập cho xã hội,
tinh thần đoàn kết tương trợ, tinh thần dám nghĩ, dám nói, dám làm, không sợ khó,
ý thức cần kiệm”[5;59]. Tinh thần cơ bản của một luận đề mácxít về chủ nghĩa xã
hội được Hồ Chí Minh nhắc lại với một quy mô lớn hơn: chủ nghĩa xã hội là của
nhân dân, vì nhân dân và do nhân dân lao động.
Theo tư
tưởng Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội có những đặc trưng cơ bản như sau:
Chủ
nghĩa xã hội là một chế độ xã hội có lực lượng sản xuất phát triển cao, gắn
liền với sự phát triển tiến bộ của khoa học – kĩ thuật và văn hóa, dân giàu
nước mạnh.
Thực
hiện chế độ sở hữu xã hội về chủ nghĩa sản xuất và thực hiện nguyên tắc phân
phối theo lao động.
Chủ
nghĩa xã hội có chế độ chính trị dân chủ, nhân dân lao động làm chủ. Nhà nước
là của dân, do dân và vì dân, dựa trên khối đại đoàn kết toàn dân mà nòng cốt
là lien minh công – nông – lao động trí óc, do Đảng cộng sản lãnh đạo.
Chủ
nghĩa xã hội có hệ thống quan hệ xã hội lành mạnh, công bằng, bình đẳng, không
còn áp bức, bóc lột, bất công, không còn sự đối lập giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, giữa thành thị và nông thôn, con người được giải phóng, có điều
kiện phát triển toàn diện, có sự hài hòa trong phát triển của xã hội tự nhiên.
Chủ
nghĩa xã hội là của quần chúng nhân dân và do quần chúng nhân dân tự xây dựng
lấy.
Đảng
Cộng sản Việt Nam ngay từ cương lĩnh đầu tiên đã xác định con đường đi lên tất
yếu của cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.
Trong Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội
khẳng định “xã hội chủ nghĩa mà nhân dân Việt Nam xây dựng là một xã hội:
- Do nhân dân lao động làm chủ.
- Có một nền kinh tế phát triển dựa
trên lực lượng sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ
yếu.
- Có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà
bản sắc dân tộc.
- Con người được giải phóng khỏi áp
bức, bóc lột, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự
do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển cá nhân.
- Các dân tộc trong nước bình đẳng,
đoàn kết và giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ.
- Có quan hệ hữu nghị và hợp tác với
nhân dân tất cả các nước trên thế giới”[11;316].
Đại hội đại biểu tiàn quốc lần thứ X
một lần nữa khẳng định: “xã hội xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Nhà nước và nhân dân
ta xây dựng là một xã hội dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực
lượng sản xuất; có nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người
được giải phóng khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết,
tôn trọng, giúp nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng sản; có quan
hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới”[12;18].
Tóm lại, theo
Mác, Ăngghen và Lênin thì chủ nghĩa xã hội là một nấc thang trong lịch sử tiến
hóa của loài người, nó sẽ thay thế xã hội tư bản – đay là quy luật mang tính
tất yếu của lịch sử - tự nhiên. Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản
mà thời kì đầu là xã hội chủ nghĩa là một thời kì cải biến cách mạng từ xã hội
nọ sang xã hội kia. Xã hội của thời kì quá độ là xã hội vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa: “đó là xã hội, về mọi phương diện kinh tế, đạo đức, tinh
thần còn mang những dấu vết xã hội cũ mà nó đã lọt lòng. Đó là xã hội chưa phát
triển trên cơ sở chính của nó”[2;155].
Tiếp
thu chủ nghĩa Mác – Lênin, vận dụng sáng tạo vào hoàn cảnh cụ thể ở Việt Nam
trong thời đại ngày nay, Hồ Chí Minh và Đảng ta nhận thức: chủ nghĩa xã hội là
hiện thân đỉnh cao của tiến trình tiến hóa của lịch sử nhân loại mà những đặc
trưng cơ bản của chủ nghĩa xã hội là một xã hội: có cơ sở vật chất – kĩ thuật
là nền sản xuất công nghiệp hiện đại; xóa bỏ chế độ tư hữu tư bản chủ nghĩa,
thiết lập chế độ công hữu về những tư liệu sản xuất chủ yếu; tạo ra cách tổ
chức lao động và kỷ luật lao động mới; thực hiện nguyên tắc phân phối theo lao
động – nguyên tắc phân phối cơ bản nhất; có nhà nước xã hội chủ nghĩa mang bản
chất giai cấp công nhân, tính nhân dân rộng rãi và tính dân tộc sâu sắc; thực
hiện quyền và lợi ích của nhân dân; là một xã hội có chế độ đã giải phóng con
người thoát khỏi ách áp bức bóc lột, thực hiện công bằng, bình đẳng, tiến bộ xã
hội, tạo những điều kiện để con người phát triển toàn diện”[3;69].
CON ĐƯỜNG ĐI LÊN CHỦ NGHĨA XÃ HỘI Ở
VIỆT NAM
Trong cương lĩnh đầu tiên của
Đảng, Nguyễn Ái Quốc đã vạch ra hướng đi cho cách mạng Việt Nam là: chủ trương
làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội công sản.
Cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: cách mạng dân tộc dân chủ nhân
dân và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Hai giai đoạn đó đều thuộc phạm trù cách
mạng vô sản. Vào những thập niên 80 của thế kỉ XX, chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô
và Đông Âu lâm vào khủng hoảng, suy thoái nghiêm trọng và sụp đổ. Đảng ta vẫn
kiên định con đường chủ nghĩa xã hội. Đảng khẳng định đây chỉ là bước thụt lùi
tạm thời của chủ nghĩa xã hội, là sự sụp đổ của một mô hình chủ nghĩa xã hội
chưa phù hợp, còn nhiều khiếm khuyết. Năm 1991, Đảng ta xây dựng cương lĩnh xây
dựng đất nước trong thời kì quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Đại hội
Đảng lần thứ IX một lần nữa khẳng định: “Chủ nghĩa xã hội trên thế giới từ
những bài học thành công và thất bại cũng như khát vọng và sự thức tỉnh của dân
tộc, có điều kiện và khả năng tạo ra bước phát triển mới. Theo quy luật tiến
hóa của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ nghĩa xã hội”[11;364].
Trong tiến trình phát triển của lịch sử dân tộc, đã có nhiều thời điểm đặt ra
vấn đề lựa chọn lại con đường phát triển của lịch sử dân tộc và “con đường đi
lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư
bản chủ nghĩa, nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản
xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những
thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa, đặc biệt về
khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền
kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo
ra sự biến đổi về chất của xã hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó
khăn, phức tạp, cho nên phải trải qua một thời kì quá độ lâu dài với nhiều
chặng đường, nhiều hình thức tổ chức kinh tế, xã hội có tính chất quá
độ”[4;421].
Trong
các lĩnh vực của đời sống xã hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái mới
và cái cũ. Trong thời kì quá độ, vẫn có nhiều hình thức sở hữu về tư liệu sản
xuất, nhiều thành phần kinh tế, giai cấp, tầng lớp xã hội khác nhau, nhưng cơ
cấu, tính chất, vị trí của các giai cấp trong xã hội ta đã thay đổi nhiều cùng
với những biến đổi to lớn về kinh tế xã hội. Mối quan hệ giữa các giai cấp,
tầng lớp là quan hệ hợp tác và đấu tranh trong nội bộ nhân dân, đoàn kết và hợp
tác lâu dài trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc dưới sự lãnh đạo của
Đảng. Lợi ích giai cấp công nhân thống nhất với lợi ích toàn dân tộc trong mục
tiêu chung là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Con
đường quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam là con đường “rút ngắn” nhưng vì
điểm xuất phát của chúng ta là từ một nước nông nghiệp lạc hậu tiến thẳng lên
chủ nghĩa xã hội không phải kinh qua giai đoạn phát triển tư bản chủ nghĩa. Từ
đặc điểm nổi bật này nên chủ nghĩa xã hội ở nước ta không thể làm mau được mà
phải làm dần dần, qua nhiều chặng đường.
Đảng ta đã chỉ
rõ: con đường đi lên của nước ta là sự phát triển quá độ lên chủ nghĩa xã hội
bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, nghĩa là bỏ qua việc xác lập vị trí thống trị
của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu,
kế thừa những thành tựu mà nhân loại đã đạt được dưới chế độ tư bản chủ nghĩa,
đặc biệt về khoa học và công nghệ, để phát triển nhanh lực lượng sản xuất, xây
dựng nền kinh tế hiện đại. “Để đi lên chủ nghĩa xã hội, chúng ta phải phát
triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; đẩy mạnh công nghiệp
hóa – hiện đại hóa; xây dựng nền văn hóa tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc làm
nền tảng tinh thần của xã hội; xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện
đại đoàn kết dân tộc, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân
dân, do nhân dân, vì nhân dân; xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh; bảo đảm
vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia; chủ động và tích cực hội nhập kinh tế
quốc tế”[12;69].
Đã có những thời
kì Đảng mắc phải những sai lầm trong việc định hướng phát triển kinh tế do áp
dụng máy móc mô hình kế hoạch hóa tập trung của Liên Xô, Trung Quốc. Chúng ta
đồng nhất nền kinh tế hang hóa với chủ nghĩa tư bản nên đã tiến hành xóa bỏ hai
thành phần kinh tế vẫn còn năng động là kinh tế cá thể và kinh tế tư bản tư
nhân quá sớm. Chúng ta muốn tiến nhanh, tiến mạnh, tiến vững chắc lên chủ nghĩa
xã hội, phát triển quan hệ sản xuất tiên tiến nhưng không tạo điều kiện cho lực
lượng sản xuất phát triển do đó đã vi phạm quy luật khách quan về sự phù hợp
quan hệ sản xuất với tính chất và trình độ của lực lượng sản xuất dẫn đến nền
kinh tế Việt Nam trong một thời gian dài lâm vào khủng hoảng, thậm chí còn thụt
lùi.
Các nhà
kinh điển của chủ nghĩa Mác – Lênin đã chỉ ra rằng cơ sở của chủ nghĩa xã hội
là nền đại công nghiệp có năng lực sản xuất lớn hơn tư bản chủ nghĩa, để làm
được điều này chúng ta phải học tập khoa học - kĩ thuật, kinh nghiệm quản lí
của chủ nghĩa tư bản. Chính tư tưởng chủ quan nóng vội đã làm thui chột tiềm
năng sáng tạo của người lao động.
Đúc rút
kinh nghiệm từ thực tỉễn sinh động ở trong và ngoài nước, Đảng ta đã mạnh dạn
công khai nhận khuyết điểm và nhận thức đúng đắn hơn về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội: là một quá trình lâu dài, khó khăn, trải qua nhiều chặng đường
với những bước đi thích hợp mà cụ thể là phát triển nền kinh tế nhiều thành
phần xã hội chủ nghĩa. Các thành phần kinh tế bao gồm: kinh tế nhà nước, kinh
tế tập thể, kinh tế tư nhân (cá thể, tư bản tư nhân, tiểu chủ), kinh tế tư bản
nhà nước, kinh tế có vốn đàu tư nước ngoài, trong đó kinh tế nhà nước đóng vai
trò chủ đạo điều tiết vĩ mô nền kinh tế để phát triển tiềm lực của đất nước đưa
kinh tế Việt Nam nhanh chóng đi vào quỹ đạo xã hội chủ nghĩa.
Tại Đại
hội IX, Đảng và Nhà nước chủ trương tiếp tục thực hiện nhất quán và lâu dài nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nhằm: “phát triển lực lượng sản
xuất, phát triển kinh tế để xây dựng cơ sở vật chất kĩ thuật của chủ nghĩa xã
hội, nâng cao đời sống nhân dân. Phát triển lực lượng sản xuất hiện đại gắn
liền với quan hệ sản xuất mới phù hợp trên cả ba mặt sở hữu, quản lí và phân
phối”[11;636].
Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa có sự quản lí của nhà nước. Nhà nước ta
là Nhà nước xã hội chủ nghĩa, quản lí kinh tế bằng chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch, chính sách, sử dụng cơ chế thị trường, áp dụng các hình thức kinh tế và
phương pháp quản lí của kinh tế thị trường để kích thích sản xuất, giải phóng
sức sản xuất, phát huy mặt tích cực, hạn chế và khắc phục mặt tiêu cực của cơ
chế thị trường, bảo vệ lợi ích của nhân dân lao động, của toàn thể nhân dân.
Kinh tế
thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thực hiện phân phối chủ yếu theo lao
động và hiệu quả kinh tế, đồng thời phân phối theo mức đóng góp và các nguồn
lực khác vào sản xuất, kinh doanh và thông qua phúc lợi xã hội. Tăng trưởng
kinh tế gắn liền với đảm bảo tiến bộ và công bằng xã hội ngay trong từng bước
phát triển.
Chủ
trương xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa
thể hiện tư duy, quan niệm của Đảng ta về sự phù hợp giữa quan hệ sản xuất với
trình độ và tính chất của lực lượng sản xuất.
Tại Đại hội X, đánh giá quá trình năm năm thực hiện
nghị quyết Đại hội IX của Đảng đã nêu rõ: “nền kinh tế đã vượt qua thời kì suy
thoái kém phát triển, đạt tốc độ phát triển khá cao và tương đối toàn diện…
Kinh tế vĩ mô tương đối ổn định, các quan hệ và cân đối chủ yếu trong nền kinh
tế được cải thiện; việc huy động các nguồn nội lực cho phát triển có chuyển
biến tích cực, tỉ lệ huy động GDP và ngân sách nhà nước vượt dự kiến”[12;56].
Đại hội IX khẳng định: Công nghiệp
hóa – hiện đại hóa là nhiệm vụ trung tâm. Con đường công nghiệp hóa – hiện đại
hóa ở Việt Nam có thể rút ngắn thời gian, vừa có những bước tuần tự, vừa có
bước nhảy vọt, phát huy những lợi thế của đất nước. Coi phát triển giáo dục đào
tạo, khoa học và công nghệ là nền tảng và động lực của sự nghiệp công nghiệp
hóa – hiện đại hóa. Công nghiệp hóa – hiện đại hóa phải đảm bảo: nền kinh tế
độc lập tự chủ, tiềm lực mạnh; có tích lũy cao; cơ cấu kinh tế hợp lí, có sức
cạnh trạnh; kết cấu hạ tầng hiện đại với một số ngành công nghiệp nặng then
chốt; kết hợp nội lực và ngoại lực.
Phát
triển kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững, chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp hóa – hiện đại hóa. Trong đó nâng cao hiệu
quả sản xuất của doanh nghiệp nhà nước, phát huy nội lực, mở rộng thị trường
ngoài nước.
Công
nghiệp hóa – hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn, tăng sức sản xuất và nâng cao
đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân.
Trong
công nghiệp: phát triển những ngành nhiều lao động và những ngành có hàm lượng
kĩ thuật cao. Khai thác hiệu quả nguồn tài nguyên.
Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành
dịch vụ. Xây dựng đồng bộ và từng bước hiện đại hóa kết cấu hạ tầng: giao
thông, điện lực, thủy lợi,…
Phát
triển mạng lưới đô thị hợp lí; phát huy vai trò của các vùng kinh tế trọng
điểm; phát triển mạnh và phát huy vai trò chiến lược cảu kinh tế biển, kết hợp
với bảo vệ vùng biển; sử dụng hợp lí nguồn tài nguyên, bảo vệ và cải thiện môi
trường tự nhiên, bảo tồn đa dạng sinh học.
Đến Đại
hội Đảng X, đường lối công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước có một số những
thay đổi cho phù hợp với tinh hình mới ở trong nước và thế giới “tranh thủ cơ
hội thuận lợi do bối cảnh quốc tế tạo ra và tiềm năng lợi thế của nước ta để
rút ngắn quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước theo định hướng xã
hội chủ nghĩa gắn với phát triển kinh tế tri thức, coi kinh tế tri thức là yếu
tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hóa, hiện đại hóa” [12;87].
Phát
triển các ngành và sản phẩm kinh tế có giá trị gia tăng cao dựa nhiều vào tri
thức; kết hợp việc sử dụng nguồn vốn tri thức con người Việt Nam với tri thức
mới của nhân loại. Coi trọng cả số lượng và chất lượng tăng trưởng kinh tế
trong mỗi bước phát triển của đất nước.
Xây
dựng cơ cấu kinh tế hiện đại và hợp lí theo ngành, lĩnh vực và lãnh thổ. Giảm
chi phí trung gian nâng cao năng suất lao động của tất cả các ngành, các lĩnh
vực, nhất là các ngành, các lĩnh vực có hàm lượng chất xám và có sức cạnh tranh
cao.
Đại hội
X chủ trương phát triển nhanh hơn công nghiệp, xây dựng và dịch vụ; khuyến
khích phát triển công nghiệp công nghệ cao, công nghiệp chế tác, công nghiệp
phần mềm; phát triển một số khu kinh tế mở, thu hút kinh tế. Nâng cao hiệu quả
kinh tế của các khu chế xuất, khu công nghiệp; thu hút đầu tư của các tập đoàn
lớn; thực hiện một số dự án quan trọng về khai thác tài nguyên; tu hút những
chuyên gia giỏi, cao cấp của nước ngoài và trong cộng đồng người Việt ở nước
ngoài. Bảo đảm đến năm 2010 có nguồn nhân lực với cơ cấu đồng bộ và chất lượng
cao, tỉ lệ lao động trong khu vực nông nghiệp dưới 50% lực lượng lao động xã
hội.
Công
nghiệp hóa - hiện đại hóa là một nhiệm vụ hết sức quan trọng, giúp chúng ta rút
ngắn khoảng cách so với các nước trong khu vực và trên thế giới, phát huy được
thế mạnh về nguòn nhân lực và tài nguyên, tạo bước đột phá trong tương lai gần,
cố gắng đến năm 2020 Việt Nam về cơ bản là nước công nghiệp.
Đại hội
IX khẳng định: “giáo dục đào tạo là một trong những đọng lực quan trọng thúc
đẩy sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa, là điều kiện để phát huy nguồn lực
con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và
bền vững”[11;654].
Tăng
trưởng kinh tế đi đôi với phát triển văn hóa giáo dục, xây dựng nền văn hóa
tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc, làm cho chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh giữ vai trò chủ đạo trong đời sống nhân dân, nâng cao dân trí, giáo dục và
đào tạo con người, xây dựng và phát triển nguồn lực con người của đất nước.
Nâng
cao chất lượng giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung phương pháp giảng dạy, chăm
lo phát triển giáo dục mầm non, tăng cường ngân sách cho giáo dục đào tạo phát
triển đa dạng các hình thức giáo dục đào tạo.Thực hiện xã hội hóa giáo dục. đổi
mới cơ chế quản lí giáo dục, tăng cường hợp tác quốc tế về giáo dục.
Về khoa
học - công nghệ, Đại hội X khẳng định: “phấn đấu đến 2010, năng lực khoa học
công nghệ của nước ta đạt trình độ của các nước tiên tiến trong khu vực trên
một số lĩnh vực quan trọng”[12;98]. Đảng chủ trương phát triển khoa học xã hội,
khoa học tự nhiên, đổi mới cơ chế quản lí khoa học và công nghệ, khuyến khích
các hoạt động sáng tạo, ứng dụng công nghệ, trọng dụng nhân tài.
Về văn
hóa: xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục tiêu, vừa
là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Đại hội Đảng chủ trương:
“xây dựng và hoàn thiện nhân cách con người Việt Nam, phát huy bản sắc dân tộc
trong thời gian công nghiệp hóa - hiện đại hóa, hội nhập kinh tế quốc tế”[10;368].
Phát huy tinh thần tự nguyện, tính tự quản, và năng lực làm chủ của nhân dân
trong đời sống văn hóa, khuyến khích hoạt động văn hóa nghệ thuật. Đầu tư cho
việc bảo tồn, tôn tạo các di tích lịch sử cách mạng, kháng chiến, các di sản
văn hóa vật thể, phi vật thể của dân tộc. Đồng thời, tạo điều kiện cho các lĩnh
vực xuất bản, thông tin đại chúng phát triển, nâng cao chất lượng tư tưởng và
văn hóa, xây dựng cơ chế quản lí phù hợp, chủ động và khoa học. Tăng cường quản
lí của nhà nước về văn hóa. Tích cực mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế về văn
hóa, chống lại sự xâm nhập của các loại văn hóa phẩm độc hại.
Đại hội
X khẳng định: “Đại đoàn kết dân tộc trên nền tảng liên minh giai cấp công nhân,
giai cấp nông dân và đội ngũ tri thức, dưới sự lãnh đạo của Đảng là đường lối
chiến lược của cách mạng Việt Nam; là nguồn sức mạnh, động lực chủ yếu và là
nhân tố có ý nghĩa quyết định đảm bảo thắng lợi bền vững của sự nghiệp xây dựng
và bảo vệ tổ quốc”[12;116]. Lấy mục tiêu giữ vững độc lập dân tộc, thống nhất
tổ quốc, vì dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh làm điểm
tương đồng để gắn bó đồng bào các dân tộc, các tôn giáo, các tầng lớp nhân dân
ở trong nước và người Việt Nam định cư ở nước ngoài, xóa bỏ mặc cảm, định kiến,
phân biệt đối xử về quá khứ, thành phần giai cấp, tôn trọng những ý kiến khác
nhau không trái với lợi ích của dân tộc. Đề cao truyền thống nhân nghĩa, khoan
dung, xây dựng tin tưởng cởi mở, tin tưởng lẫn nhau về sự ổn định chính trị và
đồng thuẫn xã hội; đoàn kết là sự nghiệp của toàn dân tộc, của cả hệ thống
chính trị mà hạt nhân lãnh đạo là các tổ chức Đảng, được thực hiện bằng nhiều
biện pháp, hình thức, trong đó các chủ trương của Đảng và chính sách pháp luật
của nhà nước có ý nghĩa quan trọng hàng đầu.
Đối với
giai cấp công nhân: phát triển về số lượng, chất lượng; tổ chứ, nâng cao giác
ngộ và bản lĩnh chính trị, trình độ học vấn, xứng đáng là lực lượng đi đầu
trong sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất nước. Giải quyết việc làm,
thực hiện tốt chính sách về pháp luật và tiền lương, bảo hiểm xã hội , bảo hiểm
y tế,… Chăm lo đời sống vật chất, tinh thần, bảo vệ quyền lợi chính đáng, hợp
pháp của công nhân. Chăm lo đào tạo cán bộ và kết nạp Đảng viên từ những công
nhân ưu tú.
Đối với
giai cấp nông dân: phát huy vai trò quan trọng trong sự nghiệp đổi mới, thực
hiện công nghiệp hóa-hiện đại hóa nông nghiệp nông thôn. Thúc đẩy chuyển dịch
cơ cấu kinh tế nông thôn, đưa công nghê tiên tiến vào nông nghiệp. Tạo điều
kiện thuận lời giúp nông nghiệp chuyển sang làm công nghiệp và dịch vụ. Khuyến
khích nông nghiệp hợp tác với các doanh nghiệp để phát triển sản xuất, ổn định
và cải thiện đời sống.
Đối với
tri thức: khuyến khích hoạt động phát minh, sáng tạo, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ,
đãi ngộ xứng đáng những cống hiến của tri thức cho công cuộc phát triển đất
nước.
Đối với
các doanh nhân: khuyến khích phát triển sản xuất kinh doanh, mở rộng đầu tư
trong nước và nước ngoài, giải quyết việc làm cho người lao động, nâng cao chất
luợng sản phẩm, tạo dựng và giữ gìn thương hiệu hang hóa Việt Nam.
Đối với
thế hệ trẻ: thường xuyên giáo dục chính trị, truyền thống, lí tưởng, đạo đức và
lối sống, tạo mọi điều kiện cho phát triển toàn diện.
Đối với
phụ nữ: thực hiện bình đẳng giới, tạo điều kiện cho phụ nữ tham gia ngày càng
nhiều vào các hoạt động xã hội, cơ quan lãnh đạo và quản lí các cấp.
Đối với người cao tuổi: chăm sóc sức khỏe, phat huy
kinh nghiệm sống, lao động của người cao tuổi, giúp đỡ người cao tuổi không nơi
nương tựa.
Các dân
tộc anh em trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ. cùng nhau thắng lợi sự nghiệp công nghiệp
hóa-hiện đại hóa đất nước, xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ
nghĩa.
Đúng
như Hồ Chí Minh đã nói: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết, thành công, thành
công, đại thành công”. Đó là hạt nhân sống còn đối với mỗi quốc gia, dân tộc.
Các thế lực thù địch luôn tìm cách chia rẽ khối đoàn kết của dân tộc Việt Nam.
Lịch sử hào hung của dân tộc đã chứng minh rằng: kẻ thù càng cố tìm cách chia
rẽ thì khối đại đoàn kết dân tộc ấy lại càng gắn bó keo sơn, tinh thần ấy làm
nên sức mạnh Việt Nam mà bất kì bạo lực nào của kẻ thù cũng không đè bẹp nổi.
Nâng
cao năng lực và sức chiến đấu của Đảng, không ngừng đổi mới hệ thống chính trị,
xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ xã hội chủ nghĩa đảm bảo quyền lực
thuộc về nhân dân.
Đảng
ta luôn xác định cách mạng Việt Nam là giải phóng dân tộc gắn liền với giải
phóng giai cấp, độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Và nhiệm vụ bảo
vệ tổ quốc luôn là nhiệm vụ cần phải chú trọng bởi các thé lực thù địch luôn
tìm mọi cách, mọi lúc chống phá công cuộc cách mạng mà Đảng, nhà nước và nhân
dân ta đang xây dựng. Để làm tốt nhiệm vụ đó cần phải:
Tiếp
tục đổi mới và nâng cao chất lượng công tác giáo dục, bồi dưỡng kiến thức quốc
phòng, an ninh cho cán bộ, công chức và cho toàn dân.
Kết
hợp phát triển kinh tế-xã hội với tăng cường sức mạnh quốc phòng và an ninh
trên cơ sở phát huy mọi tiềm năng của đất nước.
Tiếp
tục xây dưng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh
nhuệ, từng bước hiện đại.
Xây
dựng, bổ sung cơ chế lãnh đạo của Đảng và quản lí của nhà nước đối với hoạt
động quốc phòng, an ninh.
Ngay từ thế kỉ XIX C.Mác
và Ăngghen đã xây dựng nên học thuyết hình thái kinh tế - xã hội, chỉ ra một
cách khoa học rằng chủ nghĩa xã hội là một nấc thang cao của lịch sử tiến hóa
loài người, nó sẽ thay thế chủ nghĩa tư bản. Sau đó, những lí luận về chủ nghĩa
xã hội được Lênin bổ sung.
Tiếp
thu và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin và hoàn cảnh cụ thể Việt Nam, Hồ
Chí Minh và Đảng đã có những nhận thức sâu sắc, khoa học về chủ nghĩa xã hội.
Từ đó có những bổ sung và phát triển lí luận về chủ nghĩa xã hội, đưa ra những
đặc trưng cơ bản về chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam. Từ năm 1986, chúng ta thực
hiện công cuộc đổi mới đất nước, xác định rõ hơn con đường đi lên của dân tộc.
Từ
thực tiễn di lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam, chúng ta thấy rằng đó là con
đường đúng đắn phù hợp với lịch sử dân tộc Việt Nam, phù hợp với quy luật phát
triển, với xu thế phát triển của thời đại. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con
đường đi lên chủ nghã xã hội của Đảng và nhân dân ta ngày càng đúng đắn, khách
quan và sáng rõ hơn. Hệ thống quan điểm, lí luận về công cuộc đổi mới về chủ
nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam đã được xây dựng
dựa trên sự đúc kết kinh nghiệm của quá khứ, đặc biệt là trên những thực tiễn
sinh động của đất nước và của thời đại. Muốn xây dựng thành công chủ nghĩa xã
hội chúng ta cần phải xây dựng từng bước phù hợp với từng thời kí mà cụ thể là
hiện nay chúng ta đang thực hiện sự nghiệp công nghiệp hóa-hiện đại hóa đất
nước vì mục tiêu: “ dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh”.
1. Nguyễn Lương Bằng, Bài giảng
triết học, Đại học Vinh, 2006.
2. Nguyễn Trọng Chuẩn, Những quan
điểm cơ bản của Mác-Ăngghen-Lênin về chủ nghĩa xã hội và thời kì quá độ,
Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội 1997.
3. Đỗ Nguyên Phương ( chủ biên), Giáo
trình chủ nghĩa xã hội khoa học, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
4. Đoàn Quang Thọ (chủ biên), Giáo
trình triết học, Nxb Lí luận Chính trị, Hà Nội 2006.
5. Mạch Quang Thắng (chủ biên), Giáo
trình tư tưởng Hồ Chí Minh, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.
6. Trịnh Quốc Tuấn (chủ biên), Hồ
Chí Minh về chủ nghĩa Mác-Lênin, chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên xã hội
chủ nghĩa ở Việt Nam, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2004.
7. C.Mác - Ăngghen toàn tập (tập 4), Nxb Chính trị Quốc gia.
8. C.Mác-Ăngghen toàn tập (tập 20), Nxb Chính trị Quốc gia.
9. Lênin toàn tập (tập 27), Nxb Tiến bộ Matxcova.
10. Lênin toàn tập (tập 34), Nxb Tiến bộ Matxcova.
11. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội Đảng thời kì đổi mới (Đại hội VI, VII, VIII, IX), Nxb
Chính trị Quốc gia, Hà Nội 2005.
12. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn
kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 2006.
0 nhận xét:
Đăng nhận xét