RSS
Write some words about you and your blog here

Thứ Bảy, 20 tháng 4, 2013

Bào tồn di sản văn hóa Sông Hinh:


GẮN VỚI PHÁT TRIỂN DU LỊCH
Thạc sỹ Lê Thế Vịnh
Trưởng Phòng Di sản,
Sở Văn hoá, Thể thao và Du lịch Phú Yên


So với các địa phương trong tỉnh, Sông Hinh là huyện có nhiều thành phần tộc người sinh sống. Theo thống kê của Cục thống kê huyện Sông Hinh, hiện nay trên địa bàn huyện có trên 30 thành phần tộc người cùng sinh sống, trong đó có 3 dân tộc cư trú lâu đời trên vùng đất Sông Hinh là người Ê Đê, người Chăm H’roi và người Ba – Na.
Với một địa phương có nhiều thành phần dân tộc sinh sống, nên di sản văn hóa ở đây từ vật thể đến phi vật thể vô cùng phong phú và đa dạng. Ở bài viết này chỉ đi sâu một số loại hình di sản văn hóa, mang tính chất định hướng cho sự phát triển du lịch trên địa bàn huyện.
Về văn hóa vật thể, nét độc đáo nhất phải kể đến là những chiếc nhà sàn của người Ê Đê. Trong sử thi Chi - Lơ - Kok (do ông Ka Sô Liễng sưu tầm, biên soạn và xuất bản) thì ngôi nhà của Chi Lơ Kok dài hàng trăm sải tay, đủ cho một gia đình mẫu hệ bao gồm nhiều thế hệ sinh sống. Còn theo mô tả của một số học giả, thì nhiều ngôi nhà Ê Đê có độ dài bằng một tiếng chiếng ngân. Ngôi nhà dài ấy, ngoài chức năng cư trú, còn là nơi sinh hoạt của đại gia đình; nơi lưu giữ, bảo tồn các tập tục, tín ngưỡng; không gian tổ chức các nghi lễ theo vòng đời người… Có thể nói, ngôi nhà dài Ê Đê là nơi hội tụ đầy đủ bản sắc, vẻ đẹp của di sản văn hóa vật thể và phi vật thể của cộng đồng.
Ngày nay do tập quán cư trú của người Ê Đê đã thay đổi, nên những ngôi nhà mẫu hệ gồm nhiều thế hệ sinh sống không còn, thay vào đó là những ngôi nhà một hoặc hai thế hệ (ông bà - cha mẹ - con cái) cùng sinh sống. Sự thay đổi về quy mô cư trú của mỗi gia đình làm cho diện mạo văn hóa ngôi nhà dài xưa có những biến đổi theo. Điều dễ nhận thấy nhất là các lễ cúng thuộc phạm vi gia đình giảm hẳn (do số lượng người giảm), uy thế và quyền lực của người đàn bà chủ gia đình đối với các thành viên trong gia đình không còn mạnh mẽ như xưa; việc truyền dạy, bảo tồn các tập tục, tín ngưỡng cũng bắt đầu có hiện tượng mờ nhạt. Vì vậy, trong chiến lược phát triển du lịch của Sông Hinh cần quy hoạch đầu tư xây dựng một số ngôi nhà dài với đầy đủ các chức năng, nhiệm vụ vốn có của nó. Đây là một loại hình du lịch văn hóa mang đậm bản sắc cư dân địa phương, gắn kết với cộng đồng và môi trường sống đang được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm khai thác.
Về di sản văn hóa phi vật thể, Sông Hinh là nơi có nhiều loại hình văn hóa độc đáo. Trước hết phải kể đến là kho tàng sử thi của các tộc người Ê Đê, Ba Na và Chăm H’roi.  Theo điều tra và thống kê của Sở Văn hóa – Thông tin (nay là Sở VH,TT&DL) thì trên địa bàn Sông Hinh đã kiểm kê được gần 100 sử thi, nhiều nhất là của người Ê Đê và trên 30 nghệ nhân hát sử thi. Sử thi Sông Hinh không chỉ nhiều về số lượng, phong phú về chủ đề sáng tạo, mà chất lượng nhiều bản sử thi có giá trị về văn hóa, lịch sử, được các nhà khoa học đánh giá cao như Đam San, Xinh Nhã, Khinh Dú, Am H’Wứ….. Vì lẽ đó mà các nhà khoa học không ngần ngại đưa ra nhận định rằng: “Sông Hinh là quê hương của sử thi”. 
Trong đời sống tinh thần của đồng bào các dân tộc thiểu số, sử thi chiếm lĩnh một vị trí rất quan trọng và có sức thu hút mạnh mẽ, to lớn. Mỗi khi nghe nghệ nhân hát sử thi cất lên, thì dân buôn từ già đến trẻ đều lũ lượt kéo đến im lặng lắng nghe hết đêm này qua đêm khác. Người dân đến với sử thi không chỉ nghe tiết tấu, giai điệu và biểu đạt của nghệ nhân qua từng chương, khúc, mà thông qua nội dung sử thi, nhân dân nhận biết quá trình xây dựng buôn làng, lịch sử đấu tranh chống thiên nhiên và xã hội, phong tục tập quán, nếp sống cộng đồng, mối quan hệ giữa các tộc người trong địa vực cư trú…v..v… Mỗi sử thi là một câu chuyện lịch sử gắn bó với cộng đồng cư dân, được truyền khẩu từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Rõ ràng việc đưa một loại hình văn hóa mang tính tự sự dân gian vào khai thác du lịch là một vấn đề khó, song đây là di sản văn hóa độc đáo, có sức thu hút đối với các nhà nghiên cứu trong và ngoài nước, kể cả nhân dân địa phương. Với số lượng sử thi được điều tra, sưu tầm và công bố, với giá trị nghệ thuật và nhân văn, tin rằng trong tương lai không xa, sử thi Tây Nguyên sẽ trở thành di sản văn hóa truyền khẩu của nhân loại, khi đó cơ hội phát triển sản phẩm này trở nên sáng sủa hơn. Vì vậy, những người làm công tác văn hóa, du lịch Sông Hinh nên có sự chuẩn bị ngay từ bây giờ, để đón nhận sự kiện đó.
Một di sản văn hóa độc đáo khác của Sông Hinh là múa “trống tùng khắc”, và “trống đôi”. Các loại múa này thường có tiết tấu nhanh và trình diễn theo lối ứng diễn, không có động tác ổn định, nên hiệu quả tiết mục hoàn toàn phụ thuộc vào nghệ nhân trình diễn và yêu cầu của người xem. Những động tác múa thường mô phỏng động tác các loài vật gắn với đời sống cộng đồng, như gà, chó, khỉ, vượn, đười ươi…
 Nét đẹp của “tùng khắc” và “trống đôi” không chỉ ở tiết tấu, giai điệu và động tác biểu diễn sinh động của nghệ nhân, mà thông qua âm thanh tiếng trống, nhịp tay vỗ (đánh) lúc mạnh, lúc nhẹ; lúc dồn dập, lúc thong thả, buông lơi, thật giống như bài dân ca dân tộc Chăm diễn tả:
Miệng tươi cười như đóa hoa bầu,
Tay đưa đi, đưa lại mềm mại,
Như gió đưa ngọn tre,
Như cá lượn, chim sà xuống đất.
Tiếng trống là lời nói đối đáp giữa hai người. Sự thăng hoa, sự vui buồn cũng như lời nhắn gửi của nghệ nhân đều thể hiện qua từng tiết tấu, âm điệu của mỗi tiếng trống. Người sành chơi, nghe tiếng trống hiểu được tâm trạng, lời nói của hai nghệ nhân.
Để cho việc biểu diễn “tùng khắc” và “trống đôi” được sinh động hơn, trong thời gian qua một số nơi dùng “bộ chiêng 5” (nếu người Chăm dùng bộ cồng 3 chiếc) đánh đệm và dùng “múa xoang” minh họa. Song sự kết hợp này nhiều nơi, nhiều lúc diễn ra còn khiêm cưỡng và do đó kết quả đạt được chưa cao. Vì vậy, để đưa loại hình văn hóa này phục vụ du lịch cần phải có sự đầu tư luyện tập, dàn dựng, phục trang, trang trí và chọn lựa không gian biểu diễn phù hợp với loại hình di sản văn hóa.
Trong di sản văn hóa phi vật thể, Sông Hinh là nơi có số lượng lễ hội dân gian rất lớn.
Về vòng cây trồng có các lễ: chọn đất, phát cây, đốt cây, trỉa hạt, cúng mừng cơm mới, cúng đưa lúa vào kho, cúng lấy lúa ra dã gạo ăn. Nếu trong quá trình sản xuất gặp nắng hạn, mưa dầm hoặc bị sâu bọ phá hoại mùa màng, dân làng tổ chức cúng Yàng.
Về vòng đời người có các lễ cúng: Bà mụ, sinh đẻ, đặt tên, thổi tai, trưởng thành, lễ cưới, lễ mừng sức khỏe, tang lễ, lễ bỏ mả……
Ngoài ra, trong năm buôn làng còn tổ chức một số lễ cúng khác như: cúng đầu làng, cúng bến nước, cúng thần cây đa, ma cây gạo, cúng về nhà mới, cúng mừng năm mới..v..v…
Trong các lễ hội nêu trên, lễ hội thu hút đông đảo người tham gia và được chú ý nhiều nhất là lễ hội “xoây cột con trâu”. Trong đời sống tâm linh của các tộc người ở Phú Yên, lễ “xoây cột con trâu” thường được tổ chức vào ngày có trăng của tháng Giêng, tháng Hai hoặc tháng Ba âm lịch. Đây cũng là tháng vụ mùa kết thúc, nhà nhà lúa đầy kho, ché đầy rượu, động vật và thực vất tràn đầy sức sống. Lễ xoây cột con trâu thường tổ chức theo hai hình thức: cộng đồng và gia đình.
Đối với buôn làng việc tổ chức lễ “xoây cột con trâu” nhằm cầu mưa thuận gió hòa, cầu mùa. Hoặc do dịch bệnh làm chết nhiều người trong buôn, do cháy buôn, làm ăn mất mùa, mừng thắng trận ..v.v.. chủ làng thay mặt dân làng khấn xin Yàng trời Yàng đất trợ giúp con người vượt qua hoạn nạn, khó khăn, đến ngày hẹn buôn làng tổ chức đâm trâu trả nợ Yàng.
Đối với gia đình, lễ xoây cột con trâu được tổ chức nhằm tạ ơn trời đất đem lại cho gia đình điều hay, việc tốt . Hoặc khi người trong nhà thường bị ốm đau, bệnh tật, gia chủ khấn Yàng phù trợ cho họ tai qua nạn khỏi, nay đến ngày hiến sinh cúng trả nợ yàng. Ngoài ra, lễ “ xoây cột con trâu” còn thấy trong lễ bỏ mả - một lễ hội quan trọng trong vòng đời của các tộc người thiểu số cư trú tại Sông Hinh.
Sức hấp dẫn, thu hút của lễ hội “xoây cột con trâu” không chỉ là yếu tố tâm linh, mà quan trọng hơn là sự trình diễn các loại hình văn hóa cộng đồng như đánh chiêng, trống, múa xoong, hát và cả nghệ thuật trang trí. Người dân tham gia lễ hội “xoây cột con trâu” cảm thấy như đang tắm mình vào dòng chảy của lịch sử - văn hóa dân tộc, với biết bao phấn khởi và tự hào; giúp họ xua tan những mệt nhọc, khó khăn; vững bước đi lên trong những chặng đường sắp đến.
Hiện nay, tục xoây cột con trâu chỉ còn thực hiện chủ yếu là “lễ cúng bỏ mả”. Đây quả thực là một thách thức không nhỏ đối với công việc bảo tồn và phát huy giá trị di sản văn hóa nói chung, cũng như ước muốn đưa nó trở thành sản phẩm du lịch mang bản sắc riêng của Sông Hinh. Để di trì và đưa lễ hội này thành sản phẩm du lịch, bên cạnh dựa vào cộng đồng, huyện Sông Hinh cần định kỳ tổ chức lễ hội này và đầu tư quảng bá trên các phương tiện thông tin, nhằm tạo cho nhân dân địa phương cũng như du khách thập phương có sự chuẩn bị cần thiết để tham gia.
Ngoài lễ hội xoây cột con trâu, lễ cúng bến nước cũng là lễ hội độc đáo của cộng đồng các dân tộc thiểu số Phú Yên, mang đậm dấu ấn thời tìm đất lập làng; được tổ chức hàng năm sau mùa thu hoạch, với mục đích cầu cho mưa thuận gió hòa, dân làng ấm no, hạnh phúc; mong cho dòng nước tràn đầy, trong sạch, mát mẻ, để dân làng không bị ốm đau và luôn có nước để uống. Nét đọc đáo của lễ hội này không chỉ là lễ vật, cách thức cúng tế, mà thể hiện ở nghệ thuật múa khiêl.
Xét về hình thức, múa khiêl là loại múa kiếm – một hình thức vũ trang có từ lâu đời và tồn tại đến nay trong nghệ thuật diễn xướng nghi lễ của người Ê Đê. Trong sử thi Xinh Chơ Nga điệu múa này được mô tả trong bước nhảy của chàng cao hơn ngọn cây, hơn cánh chim bay, quá nguồn mưa gió.
Người múa mặc trang phục khá đặc trưng, đầu quấn khăn nhiễu đỏ, thả hai đuôi khăn về trước trán; mặc áo đại bàng tung cáng, đóng khố kơtel, tay trái cầm khiêl, tay phải cầm đao, nhảy múa với những động tác mạnh mẽ, dứt khoát, đầy uy lực.
Múa khiêl là loại múa giao đấu theo từng cặp. Vì vậy những người múa phải có sự phối hợp hài hòa và chính xác để tránh những va chạm có gây ra vết thương, làm đổ máu, một điều rất cấm kỵ trong tục cúng. Người múa có thể bước lấy đà vài bước ở nốt nhạc thuộc phách nhẹ và nhảy tới đồng thời hô to đúng vào các nốt nhạc chủ âm của tiếng chiêng Năm.
Múa khiêl là nghi thức thể hiện tài năng, khéo léo và tinh thần thượng võ của người con trai. Vì vậy, những người múa phải trải qua một cuộc kiểm tra tài năng và kỷ thuật; tức là họ dùng khiêl che đỡ những thác nước do các cô gái đứng cạnh trút vào. Ai không bị ướt được công nhận là người có tài năng, ngược lại, họ bị loại ra khỏi cuộc chơi.
Thật là thiếu sót nếu không chọn ẩm thực là sản phẩm phục vụ du lịch của Sông Hinh. Nhiều người đến Sông Hinh đều có cảm nhận rằng nơi đây có không ít món ăn đặc sản như thịt bò nướng trong ống tre, ngũ tạng bò bóp mật bò, cá lăng nấu canh chua, thịt bò luộc chấm với muối ớt hoặc với cánh kiến vàng…Song có một món ăn vô cùng độc đáo khác chính là những bát cơm do đồng bào dân tộc xay, giã, nấu chín bằng những hạt lúa rẫy. Những bát cơm ấy không chỉ kết tinh bằng công sức lao động, mà bằng cả trí tuệ của cộng đồng được đúc kết, trải nghiệm từ thế hệ này đến thế hệ khác. Có lẽ đây là sản phẩm thiên phú cho người phụ nữ, nhằm để họ bù đắp lại những thiếu hụt về đời sống vật chất của nền kinh tế tự cấp tự túc.
Tóm lại: Di sản văn hóa của đồng bào các dân tộc thiểu số huyện Sông Hinh có khá nhiều, song để phục vụ và phát triển du lịch thì phải gắn với cộng đồng, coi cộng đồng là nhân tố bảo tồn và phát huy các giá trị di sản văn hóa bền vững nhất. Song, huyện cần lựa chọn thời điểm và loại hình thích hợp tổ chức “sự kiện văn hóa”, nhằm thu hút du khách đến Sông Hinh, quảng bá và tạo cơ hội cho họ tiếp cận với đời sống thực của đồng bào./.

0 nhận xét:

Đăng nhận xét